Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình

Thứ sáu, ngày 27/10/2023 05:15 AM (GMT+7)
Cách nhau dòng sông Đáy, thế nhưng hai ngôi làng có chung chữ đầu tên 'La' lại có thêm điểm chung là làng khoa bảng. Cách nhau dòng sông Đáy, thế nhưng hai ngôi làng có chung chữ đầu tên “La”: La Ngạn (Nam Định) và La Mai (Ninh Bình) lại có thêm điểm chung là làng khoa bảng.
Bình luận 0
Cách nhau dòng sông Đáy, thế nhưng hai ngôi làng có chung chữ đầu tên 'La' lại có thêm điểm chung là làng khoa bảng.
Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình - Ảnh 1.

Nho sĩ xưa thuộc hai làng La Mai (Ninh Bình)- La Ngạn (Nam Định) đã tạo nên những nền tảng vững chắc về truyền thống hiếu học. Ảnh minh họa

Cách nhau dòng sông Đáy, thế nhưng hai ngôi làng có chung chữ đầu tên “La”: La Ngạn (Nam Định) và La Mai (Ninh Bình) lại có thêm điểm chung là làng khoa bảng.

Làng La Ngạn thuộc xã Yên Đồng (Ý Yên - Nam Định) được cho là có lịch sử lâu đời, vốn gốc từ xưa theo Nho giáo nổi tiếng với phẩm chất thông minh và hiếu học, nhiều thế hệ khoa danh còn lưu lại bia đá cho đến bây giờ.

Bên kia sông Đáy là làng La Mai thuộc xã Ninh Giang (Hoa Lư - Ninh Bình) cũng nổi tiếng chẳng kém, với câu ca “Sinh đồ họ Tống, Hương cống họ Bùi”.

Phong thủy làng La Mai

Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình - Ảnh 2.

Làng La Mai (Ninh Bình) - nơi truyền tụng câu ca 'Sinh đồ họ Tống, Hương cống họ Bùi'.

Theo sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình”, La Mai là một làng ven sông Đáy, được quy hoạch theo phép tỉnh điền xưa. Giữa làng có một con đường chính chạy từ đầu đến cuối làng, phía Bắc có con đường phụ chạy song song với con đường chính và có con ngòi chảy dọc.

Cắt ngang đường làng là bảy con đường chạy theo hướng Bắc - Nam, chia thành 6 ô. Bởi vậy, người La Mai xưa ca ngợi rằng: Địa hình La Mai/ Son tú thủy nhai/ Văn tinh tiền án/ Hậu sơn kỳ bài/ Liên hoa xuất thủy/ Vạn khoái oanh hồi.

Ý nghĩa tên làng La Mai có nghĩa “lụa mềm” bắt nguồn từ nghề dệt lụa xa xưa. Cho nên con gái La Mai trắng và đẹp nổi tiếng, đi vào câu ca “con gái La Mai, bánh gai Cám Giá”.

Làng La Mai được xây dựng lại vào thế kỷ 15. Theo truyền thuyết, thời Ngô (tức Minh) sát phu, hiếp phụ tàn phá làng. Ông tổ họ Đinh là Đinh Phúc Tướng và ông tổ họ Bùi là Bùi Xuân Mai đã giả mù giả què vào núi Dược lánh nạn, rồi trở về lập lại làng. Câu đối ở chùa Thượng đã nói lên điều đó: Mai ấp lập thành sắp tự Đinh Thúc Thủy/ Liên đài sảng khải khởi ư Bùi Xuân Tiên.

Sách “Ninh Bình toàn tỉnh địa chí biên khảo” của danh sĩ Nguyễn Tử Mẫn chép rằng, làng La Mai qua các triều đại phong kiến Việt Nam có tổng số 36 người đỗ cử nhân (Hương cống). Trong đó họ Tống có 20 người, họ Bùi có 11 người, họ Đinh có 3 người, họ Phạm 1 người, họ Nguyễn 1 người.

Nhiều người cho rằng, chính hình thế “Văn tinh tiền án/ Hậu sơn kỳ bài” đã giúp làng trở thành làng khoa bảng nức tiếng thuở xưa. Người người đi học, nhà nhà đi học nên sự học ở đất này trở thành một nghề.

Bởi thế người La Mai vẫn thường truyền tụng câu ca: “Sinh đồ họ Tống, Hương cống họ Bùi” để ghi nhận sự hiển đạt. Hay như người thời bấy giờ vẫn thường nói một cách vần vè rằng “Gà Trung Chữ, chữ La Mai” để chỉ nếp mến chuộng sự học của người La Mai.

Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình - Ảnh 4.

Hai ngôi làng ven sông Đáy thuộc 2 tỉnh nhưng cùng chung tên La, cùng nổi tiếng khoa bảng. Ảnh minh họa

Dòng họ hiển đạt

Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình - Ảnh 5.

Đình Mông Phụ - nơi có bia ghi công Đỗ Huy Cảnh.

Nếu như các sáng tác của người ông nội là Đỗ Huy Cảnh thất lạc và mất gần hết trong đám cháy làng La Ngạn, thì thơ văn của người cháu là Đỗ Huy Liêu được người sau tập hợp lại thành bộ “La Ngạn Đỗ đại gia thi tập” khá đầy đủ với gần 200 tác phẩm. 

Khi Đỗ Huy Liêu qua đời, nhà giáo dục Cao Xuân Dục (lúc này đang giữ chức Tổng đốc Nam Định) có câu đối điếu: Lúc sống vốn kỳ, lúc chết cũng kỳ, có phải chăng người say mà ta tỉnh, người đục mà ta trong, những trối trăng con cháu đôi lời, ngoảnh lại non sông giàn nước mắt/ Khi xuất đã rõ, khi xử càng rõ, rành là thế cùng hiểu nào mấy người, cùng gặp nào mấy độ, vừa xong tang mẹ già một bữa, đoái trông thân thế hận ba đào.

Bên kia sông Đáy, làng La Ngạn cũng hiển đạt chẳng kém, đặc biệt nổi tiếng có dòng họ Đỗ nức danh khoa bảng chữ nghĩa. Tổ đời thứ 9 của dòng họ Đỗ là Đỗ Huy Cảnh, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão năm 1819.

Là người đầu tiên của huyện Ý Yên xưa đỗ Cử nhân dưới triều Nguyễn nên Hoàng giáp Phạm Văn Nghị có câu đối mừng: Ngô Huyện đương triều khoa hoạn thủy/ Danh gia dịch thế lễ thi tồn.

Đỗ Huy Cảnh làm quan trải ba triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Ông là một vị quan thanh liêm, trong sạch, cư xử đúng mực, hết lòng bảo vệ lẽ phải và bảo vệ dân nghèo. 

Chính vì vậy trong cuộc đời làm quan của mình, ông đã hai lần bị cách chức lưu quan chỉ vì thương dân mà làm trái lệnh triều đình.

Theo bia công đức ở đình Mông Phụ (xã Đường Lâm, nay thuộc Hà Nội), lúc làm Bố chính tỉnh Sơn Tây, ông đã có công giúp nhân dân xã Mông Phụ bài trừ một số tệ và cải cách chế độ thuế khóa bất hợp lý, nên được nhân dân tôn kính và phong ông là Phúc thần giáng đản, lập sinh từ và dựng bia cho ông tại đình.

Con trưởng của ông là Đỗ Huy Uyển đỗ Phó bảng năm 1841. Con trai của Đỗ Huy Uyển là Đỗ Huy Liêu đỗ Hoàng giáp năm 1879. Một số người khác trong gia đình tuy không tham gia khoa cử nhưng vẫn học giỏi và làm nghề dạy học. Đây là gia đình mà cha con, ông cháu đều đỗ đạt.

Từ đường họ Đỗ còn treo đôi câu đối: Lục triều trung hiếu gia sinh Phật/ Tam thế khoa danh quốc phúc hầu (Sáu triều trung hiếu nối nhau, Phật sống trong nhà sao hiếm thấy/ Ba đời khoa danh hiển hách, phúc thần được nước kính dâng thờ).

Trong các nhà khoa bảng La Ngạn, nổi tiếng nhất là Đình nguyên Đỗ Huy Liêu. Năm Đinh Mão (1867), Đỗ Huy Liêu đi thi Hương đỗ Giải nguyên, được bổ làm Điển tịch Viện Hàn lâm, Huấn đạo huyện Yên Mô (Ninh Bình).

Năm Kỷ Mão (1879), ông thi Hội (ân khoa) đỗ thứ 8. Dự thi Đình, ông đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) nên được tục gọi là Hoàng giáp Liêu. Trong kỳ thi này, bài thi của ông được vua Tự Đức châu phê là: “Quả có thực học, những kẻ dẫm theo vết mòn không thể làm được”.

Thi đỗ hạng cao, Đỗ Huy Liêu được bổ làm Hàn lâm viện trước tác, sau đó bổ giữ chức Tri phủ Đoan Hùng (nay thuộc Phú Thọ). Tháng Bảy năm Canh Thìn (1880), triều đình đổi ông làm Tri phủ Lâm Thao. Tháng Tư năm Nhâm Ngọ (1882), ông được thăng làm Án sát Hà Nội.

Cũng trong năm 1882, cha ông mất (Phó bảng Đỗ Huy Uyển - Biện lý bộ Hộ), ông về nhà cư tang. Năm Giáp Thân (1884), vua Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13, Đỗ Huy Liêu được triệu vào kinh làm Biện lý bộ Hộ, rồi Tham Tá nội các sự vụ.

Trong khoảng thời gian này, ông còn giữ chức Phụ đạo, dạy cho vua học và dạy cho hai con của Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp.

Nếp học truyền thừa

Hai bên bờ sông Đáy là hai làng khoa bảng cùng tên La, làng này ở đất Nam Định, làng kia trên đất Ninh Bình - Ảnh 8.

Ban thờ trong đình làng La Mai (Hoa Lư - Ninh Bình) - nơi thờ Thành hoàng và các vị tiên hiền.

Năm Ất Dậu (1885), quân Nam đánh úp quân Pháp ở Huế không thành, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi đi trốn. Đỗ Huy Liêu bị quân Pháp bắt giam vì có liên can. Để mua chuộc, quân Pháp thả tự do và cho ông làm Bố chính Bắc Ninh, nhưng ông cương quyết từ chối.

Về lại La Ngạn, ông lo phụng dưỡng mẹ già. Theo nhà chí sĩ Phan Bội Châu, sau khi quân Pháp đánh chiếm Nam Định, ông cùng với bạn là Vũ Hữu Lợi (lúc bấy giờ cũng đang bỏ quan về đây dạy học), ngầm chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa chiếm lại tỉnh thành này. 

Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa không thành vì bị Tổng đốc Vũ Văn Báo cáo giác.

Dụ hàng không được, Vũ Hữu Lợi bị quân Pháp chém tại chợ Nam Định vào đầu năm 1887, còn Đỗ Huy Liêu thì bị bắt giam đến mấy năm mới được tha, nhưng vẫn phải chịu sự quản thúc của chính quyền thực dân Pháp.

Năm 1891, tổ chức xong lễ mãn tang cho mẹ vào buổi sáng thì buổi chiều Đỗ Huy Liêu đột ngột từ trần. 

Theo Phan Bội Châu, thì ông đã uống thuốc độc tự vẫn - khi ấy mới 47 tuổi.Cho đến nay, giới nghiên cứu chưa tìm ra mối liên hệ giữa hai làng thuộc 2 tỉnh khác nhau nhưng cùng ven bờ sông Đáy có tên đầu giống nhau như hai làng La Ngạn - La Mai. Tuy nhiên, truyền thống khoa bảng của 2 làng mãi còn khắc ghi và truyền thừa đến các thế hệ sau này.

Dòng họ Tống làng La Mai được đánh giá là dòng họ tiêu biểu về công tác khuyến học, khuyến tài. Dòng họ luôn để dành một khoản tiền lớn làm quỹ khuyến học, và hàng năm vào các dịp lễ tết, giỗ tổ… đều tổ chức phát phần thưởng động viên con cháu trong họ không ngừng phấn đấu học tập.

Họ Tống cũng có nhiều người thành đạt ở lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục, học thuật, nghệ thuật. 

Với truyền thống hiếu học và thành tựu nổi bật, góp phần vào công cuộc kiến thiết và xây dựng đất nước quê hướng, ngay từ năm 2003 họ Tống trở thành “Dòng họ hiếu học” đầu tiên được vinh danh của huyện Hoa Lư.

Còn ở làng La Ngạn, dòng họ Bùi là dòng họ có truyền thống hiếu học tiêu biểu của huyện Ý Yên. Phần đông người dân trong họ đều coi trọng giáo dục, chăm lo cho sự nghiệp khuyến học, khuyến tài.

Mỗi gia đình trong họ tự nguyện đóng góp cho quỹ khuyến học để mọi người cùng có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với công tác khuyến học dòng họ. 

Năm 2016, dòng họ Bùi được địa phương tặng bức trướng “Dòng họ hiếu học” vì nhiều năm dẫn đầu xã về phong trào khuyến học.

Lấy sự học làm trọng, dòng họ Bùi có nhiều gia đình “cả nhà đỗ đại học”. Nhờ con chữ, nhiều người ở La Ngạn trở thành sĩ quan, giáo viên, bác sĩ… và họ lại có thêm điều kiện để chung tay dựng xây quê hương, tiếp nối truyền thống hay chữ mà cha ông đã tạo dựng.

Trần Siêu (Báo Giáo dục và Thời đại)
Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem