Nhật ký phóng viên chiến trường Xuân 1975 - Kỳ cuối: Tiểu đội anh hùng
Nhật ký phóng viên chiến trường Xuân 1975 - Kỳ cuối: Tiểu đội anh hùng
Nhà thơ Anh Ngọc
Thứ năm, ngày 20/03/2025 16:17 PM (GMT+7)
Theo kế hoạch đã bàn trước, lúc chúng vừa dứt lời, anh Tư dơ tay hô lớn: "Đả đảo luật phát xít Miền Nam!". Tất cả 12 anh em hô theo. Bọn hiến binh xông tới đánh túi bụi vào gáy anh em. Mặc, tôi hô tiếp luôn: "Tinh thần bất khuất của sinh viên, học sinh Miền Nam muôn năm!".
Những năm đen tối ấy, chế độ độc tài của Mỹ Diệm lúc bấy giờ đã đi đến những nấc thang tội ác cuối cùng. Một bầu không khí ngột ngạt đè nặng lên đời sống của nhân dân Miền Nam ta. Trước phong trào đấu tranh ngày càng lan rộng của các giới quần chúng, bọn ngụy phải huy động đến mọi hình thức khủng bố. Vụ án Lê Quang Vịnh và các bạn anh xảy ra trong bối cảnh ấy.
Cuộc đối đáp đanh thép tại tòa
Bọn chúng trắng trợn tuyên bố: "Phải thủ tiêu công khai bọn bay để làm gương!". Muốn xử tử hình thì phải có tội hoạt động vũ trang, chúng ghép bừa anh vào một án "mưu sát đại sứ Mỹ, phá hoại cây xăng, đánh một xe tuần tiễu, giết chết 7 địa phương quân" và quy vào 4 tội nặng: Thông đồng với tổ chức cộng sản chống chính phủ, phạm tội phản nghịch; Đồng loã chủ mưu cố sát đại sứ Mỹ; Tống tiền thường dân vô tội (xuất phát từ chỗ đội của các anh có lúc đi quyên tiền các gia đình yêu nước để hoạt động); Phá hoại tài sản quốc gia (đốt cây xăng).
Chúng dự định biến vụ án thành một đòn thị uy, nên tập trung vào đấy nhiều mánh khoé tuyên truyền. Chúng quyết định đưa ra toà 12 anh em mà chúng gộp làm một nhóm tòng phạm liên đới, gồm: 2 anh lính biệt động quân (trong đó có anh Huỳnh Văn Chính đã cung cấp lựu đạn, súng cho đội võ trang); 5 học sinh thuộc đội võ trang (trong đó có Lê Văn Thành); 1 anh thư ký, là cơ sở của ta; 1 anh chủ hiệu bán kính, cũng là cơ sở của ta; 1 anh tài xế; Lê Hồng Tư và Lê Quang Vịnh.
Cuối cùng, cái điều chúng tôi chờ mong đã đến - anh Vịnh nói tiếp. Ngày 23/5/1962, Toà án quân sự đặc biệt đặt tại đường Công Lý mở phiên toà công khai xét xử vụ án chúng tôi. Trước khi ra toà, anh em chúng tôi đã bàn bạc với nhau kỹ càng về thái độ và lời nói của mình sao cho bản án trở lại thành một bản cáo trạng đanh thép vạch mặt bọn đế quốc Mỹ và lũ tay sai của chúng. Chúng có thể tiêu giệt thể xác chúng tôi, nhưng không thể để chúng bẻ gãy được ý chí của người cách mạng.
Bảy giờ sáng, phiên toà bắt đầu mở. Dưới hàng ngàn người tham dự có khoảng 50 trí thức, giáo sư, hiệu trưởng có tiếng tăm. Ủy viên chính phủ (công tố) là đại tá Lê Văn Khoa. Tên này cầm trái thủ pháo trên tay và cho gọi anh Lê Văn Thành lên. Thấy Thành bé nhỏ, non trẻ, tên Khoa hách dịch:
- Mày có nhận đã ném thủ pháo vào xe đại sứ Mỹ không, Thành?
- Tui ném đó!
- Tại sao mày làm thế ?
- Còn tại sao nữa, Nâutinh là tên đầu sỏ đế quốc mà !
Khoa cau mày:
- Được rồi. Thế mày có nhận đã ném vào xe tuần tiễu giết chết 7 địa phương quân không ? Vừa hỏi, Khoa vừa ngoắt tay ra hiệu, lập tức ở hàng ghế bên, 7 chị vợ của 7 tên địa phương quân bồng 7 đứa trẻ, đầu bịt khăn tang trắng xoá, nhất loạt đứng lên...
Tên Khoa gật gù: Đó, mày giết người, gây nên bao nhiêu cô nhi quả phụ đó, mày thấy chưa?
- Không, tui không ném - Thành đáp.
- Mày hèn quá. Tại sao dám nhận ném vào đại sứ Mỹ mà không dám nhận giết 7 địa phương quân?
- Chính thế đấy, mặt trận dạy tui, trong quân đội Việt Nam Cộng hoà có anh em tui trong đó, muốn giết phải xin ý kiến, giết bậy, lỡ trúng phải anh em tui sao?
- Mày nhận hay không thì cũng tử hình!
Thành quay lại phía người dự: Nếu tui được là Phạm Hồng Thái giết toàn quyền Méclanh thì vô cùng vinh dự.
Chúng đều không ngờ một học sinh trẻ tuổi như Thành lại có thể nói được những câu như thế. Gương mặt Thành rực rỡ lên một ánh sáng kỳ diệu khiến cử toạ đều phải xúc động.
Chúng gọi một số anh khác lên, anh em đều có chuẩn bị sẵn, nên trả lời rất mạnh mẽ quyết liệt.
Đến lượt anh Lê Hồng Tư lên. Anh Tư vừa thi đậu tú tài. Dáng người anh rất mảnh dẻ, trắng trẻo. Tên Khoa hỏi phủ đầu anh luôn: Anh làm thế nào có nhiều vũ khí mà giết hết người này đến người khác thế, anh Tư? Coi mặt anh học trò mà bộ dò dữ vậy?
Anh Tư đáp rất mạch lạc :
- Chúng tôi thật ra không có vũ khí. Đây là vũ khí người Mỹ mang sang Việt Nam. Cơ sở của chúng tôi lấy của người Mỹ và đưa cho chúng tôi.
- Anh có nhận là đã ra lệnh ám sát đại sứ Mỹ không?
- Không ai ra lệnh cả. Nhưng nếu ai giết được tên ấy thì tôi đồng ý.
- Anh khôn khéo lắm. Thế anh có nhận chính cơ sở của anh đã ném lựu đạn vào xe tuần tiễu giết 7 địa phương quân không ?
- Không. Nếu như vậy thì phải giết nhiều lắm. Chúng tôi làm gì có đủ vũ khí.
- Tại sao thế?
- Chúng tôi đã quy ước với nhau, số vũ khí của người Mỹ đem sang Việt Nam, chúng tôi sẽ dùng tặng lại cho người Mỹ.
Câu trả lời của anh Tư vừa dứt, tiếng vỗ tay vang lên như sấm. Cả hội trường sôi động hẳn lên. Trong số những người ngồi kia có cả các thầy học của chúng tôi. Có người thành tâm xúc động, cũng có người chỉ thú vị vì một câu nói hay, một hành động có tính anh hùng. Nhưng dù sao, những câu đối đáp ấy cũng đã qua họ mà dội đến quần chúng. Chúng tôi cho đó là một thắng lợi.
Và cuối cùng đến lượt tôi đứng lên. Tâm trạng tôi lúc đó thật thanh thản, tôi chỉ nghĩ đến một điều là làm sao để quật ngã lý lẽ của kẻ thù, phải đưa ra ánh sáng sự thật về một chế độ tàn bạo, bất công, một chế độ bán nước. Phải chiến thắng trong trận quyết chiến cuối cùng này.
Tên Khoa mở đầu: Anh là trí thức, anh có thấy chính phủ đối xử rất nhân đạo với anh không? Bắt anh giữa bưng mà đem về tận đây bình an mạnh khoẻ. Chắc anh cũng thấy điều đó chứ?
Tôi đập lại ngay: Khi những tên lính kéo chúng tôi từ sình lên, chúng đã hỏi rõ lý lịch, nhưng chúng đã bắn chết ngay tất cả những người tù binh ấy, điều đó trái với công pháp quốc tế.
- Vô lý. Nếu bắn chết thì sao anh vẫn còn sống đây?
- Tôi là một trường hợp đặc biệt, một người đồng hương đã cứu tôi. Còn việc các ông bắn chết tù binh thì rõ như ban ngày. Các báo của các ông có đăng vụ này, họ đã nói rõ là các ông giết chết một kỹ sư, bắt một giáo sư...
Tôi đã được xem mấy tờ báo này nhờ anh em đưa vào hộ, nhờ vậy mà tên Khoa cứng họng. Hắn dở giọng hùng hổ: Người ta đã đặt ngoài vòng pháp luật rồi. Bắn bỏ.
Tôi bật cười: Thế sao vừa rồi ông còn nói đến nhân đạo ? Sao ông không nói là tụi tao giết người không gớm tay?
- Không được vô lễ - Tên Khoa quát lên - Anh không được có thái độ du côn trước toà, toà đang xử anh.
Tôi càng bật cười to hơn. Khoa điên tiết. Hắn đấm bàn đánh rầm: Không được cười ! Anh phải nhớ anh là kẻ chiến bại. Kẻ chiến bại phải chịu mọi hình phạt của kẻ chiến thắng.
Hắn vung tay rút cái kiếm lệnh tượng trưng ở trên bàn, cầm lăm lăm. Tôi vừa cười, vừa đáp: Thắng một trận chưa phải là thắng, thắng trận cuối cùng mới đáng kể, kẻ thắng tạm thời chưa chắc đã có chính nghĩa.
Tên Khoa không biết làm sao, đành lại đút kiếm vào vỏ và ra lệnh cho hiến binh kéo tay tôi xuống. Tôi giật tay lại. Bọn hiến binh đấm mạnh vào vai tôi, kéo tôi xuống. Quần chúng có tiếng xì xào chửi bọn hiến binh "du côn, du côn".
Trương Đình Du, luật sư biện hộ do Toà án chỉ định, đến vỗ vai tôi và nói bằng tiếng Pháp theo cái mốt của ông ta: "Được lắm, xứng đáng lắm". Ông ta bảo tôi:
- Anh Vịnh à, tụi này du côn lắm, từ thằng Tổng thống đến thằng Ủy viên, anh đừng buồn làm gì, thái độ anh làm cho tôi rất mến. Tôi là người đã từng biện hộ cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ và nhiều người khác đã ra Bắc, có lẽ anh chưa tin tôi, để tôi cãi xong anh sẽ tin... Tôi sẽ giúp anh một việc, chỉ một việc thôi, anh cần gì cứ bảo.
Nghĩ mình đang sống những giờ cuối cùng trong đời, tôi đành đưa địa chỉ ông bác tôi và nhờ ông ta tìm đến nhờ bác tìm mọi cách đưa má tôi đến cho tôi được gặp mặt một lần cuối cùng.
Ông ta nhận lời và đi ngay.
Lúc bấy giờ, trong hàng ghế dưới, tôi nhìn thấy hai nhân vật cỡ bự mà tôi có quen biết, một trong số đó là Trịnh Hổ Uy, Phó Chủ tịch tập đoàn công dân trong Nghị viện, vốn là thầy học của tôi, và một người là Trương Công Cừu, Tổng trưởng văn hoá xã hội. Trịnh Hổ Uy đi thẳng vào chỗ tôi:
- Vịnh, có nhớ tôi không?
Tôi quay lại: - Dạ, nhớ!
- Tôi không ngờ Vịnh như vậy, chính ông Cừu cũng không ngờ Vịnh là cộng sản.
Nghe ông ta nói thế, tôi đã khó chịu, nhưng vẫn ngồi yên.
- Vịnh có biết là chúng tôi có thể giúp Vịnh không ? Vịnh có ân hận gì không? Cứ nói thật đi, chúng tôi sẽ liệu cách giúp... Sao, có ân hận gì không ?
Thấy tôi không đáp, ông ta hỏi lại: Vịnh có biết là Vịnh sắp chết thật không?
- Biết. Tôi đáp cộc lốc.
- Thế Vịnh có ân hận không?
- Có.
Nghe tôi đáp vậy, ông ta mừng ra mặt: Ân hận gì?
Tôi quay lại, nhìn thẳng vào mặt ông ta: Tôi ân hận vì chết quá sớm chưa kịp thực hiện ý nguyện đuổi Mỹ lật Diệm!
Trịnh Hổ Uy tái mặt, bỏ đi ra. Lúc chúng tôi nói chuyện có nhiều người xúm quanh nghe. Những người ở xa nghe không rõ chạy lại đón Trịnh Hổ Uy để hỏi: "Sao, sao, trả lời ra sao?". Uy nói to: "Nó trả lời... thế đấy!".
Lúc bấy giờ tôi chợt nghe có tiếng kêu "con". Tôi nhìn xuống. Má tôi đang lần từ hàng ghế sau lên. Du ngồi cạnh nói với bà: Tôi đã can thiệp cho cụ vào nhưng không tới gần được đâu.
Tôi nhìn má tôi, lòng bồi hồi xúc động. Chưa bao giờ tôi thấy thương má như lúc này. Ba tôi mất đi, một mình má nuôi dạy anh chị em chúng tôi. Má biết, cho con đi làm cách mạng là gian lao vất vả, nhưng má không ngăn cản chúng tôi. Chị tôi đã ra đi và đến lượt tôi. Má không sợ gì hết, chỉ lo tôi chết.
Báo chí của Việt Nam Cộng hòa dăng tin, viết bài về 4 chiến sĩ cộng sản bị tuyên án tử hình. Ảnh tư liệu
Dạo ấy tôi có làm bài thơ "Đừng níu tay con" như một lời thưa lại với má lúc ra đi. Bài này khá phổ biến trong anh em học sinh, sinh viên. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thương má vô hạn. Nhưng tôi quyết không vì tình thương đó mà yếu lòng hạ gối đầu hàng kẻ địch. Tôi mong má hiểu cho tôi... Đã 11 giờ 30 phút đêm. Chúng đuổi thân nhân ra ngoài. Luật sư biện hộ lên tiếng. Trương Đình Du đứng dậy:
- Phiên toà hôm nay tôi nghĩ rằng rất quan trọng, không phải vì nó xử những nhân vật quan trọng mà vì những người bị đem ra xử là những thanh niên trí thức. Đây là lần đầu trong lịch sử Việt Nam có chuyện như vậy.
Ông ta chỉ vào chúng tôi và nói tiếp: Đây là những thanh niên chưa đầy 26 tuổi. Họ đã từ nhà trường bước vào cuộc đời. Ở học đường người ta dạy họ ý nghĩa của tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng vào đời họ chỉ thấy toàn bất công, áp bức và độc tài, dĩ nhiên họ phải tìm cách chống lại, họ phải tìm một đường đi... Với những thanh niên này nếu nói có công là quá đáng, thì nói là có tội cũng không đúng. Đề nghị cho tha bổng.
Mấy lời hùng hồn của ông ta xem ra không có hiệu quả gì. Toà bắt đầu nghỉ để nghị án.
Đúng 12 giờ đêm, một hồi chuông mệt mỏi rung lên, toà bước ra tuyên án. Chúng tôi xếp thành hàng dài như một hàng quân vào trận. Mặc dù sau một ngày căng thẳng tột độ, chúng tôi ai cũng tỉnh táo và vững vàng. Bản án được công bố:
Lê Hồng Tư: Tử hình. Lê Quang Vịnh: Tử hình. Lê Văn Thành: Tử hình. Huỳnh Văn Chính: Tử hình.
Vừa đọc đến đấy, không khí trong hội trường sôi sục hẳn lên, những tiếng xì xào át cả lời chánh án. Bản án tiếp theo: 4 anh chung thân, 4 anh tù từ 5 đến 10 năm.
Theo kế hoạch đã bàn trước, lúc chúng vừa dứt lời, anh Tư dơ tay hô lớn: "Đả đảo luật phát xít Miền Nam!". Tất cả 12 anh em hô theo. Bọn hiến binh xông tới đánh túi bụi vào gáy anh em. Mặc, tôi hô tiếp luôn: "Tinh thần bất khuất của sinh viên, học sinh Miền Nam muôn năm!".
Giữa vòng vây loạn đả của bọn hiến binh, Chính và Thành vẫn hô dõng dạc: "Đả đảo Mỹ Diệm", "Đả đảo phát xít". Pháp đình thật sự trở thành một bãi chiến trường, trong đó tiểu đội chúng tôi với đôi bàn tay trắng và manh áo tù đã chống trả lại cả một bộ máy đàn áp khổng lồ của lũ phát xít. Cuối cùng, chúng còng tất cả chúng tôi lại và kéo vào.
Trương Đình Du còn chạy theo nói với: Hay lắm, nhưng mà nếu như nó bắt làm đơn xin ân xá cứ làm đi nhé. Đừng cố chấp, đường còn dài...
Tôi đáp lại: Cám ơn, không bao giờ tôi xin những kẻ không đáng xin.
Chúng tống chúng tôi lên xe hơi và nổ máy vụt đi. Trên xe, cả 12 anh em chúng tôi cùng hát hết giọng, lặp đi lặp lại mãi một điệp khúc: "Vùng lên, nhân dân Miền Nam anh hùng, vùng lên, xông pha vượt qua bão bùng...".
Chúng tôi hát có đến 15 phút liền. Đêm đã về khuya, phố phường đang ngon giấc, chúng tôi vẫn hát và cảm thấy âm thanh mạnh mẽ, hào hùng lạ thường. Chắc là trong phút ấy, má tôi cũng nghe được tiếng hát của tôi.
Song sắt
Tôi muốn lấy tên một chương trong cuốn hồi ký dự định của anh Vịnh để đặt tên cho tiểu mục này, bởi cái tên đó gợi dậy một hình ảnh, một không khí có thể tiêu biểu cho những năm tù ngục của anh và các bạn bè anh. Ra thăm Côn Đảo trong những ngày vừa giải phóng, tôi có dịp thấy tận mắt những nơi mà anh Vịnh đã từng bị cấm cố trong suốt 13 năm ấy. Cảnh còn đó, người còn đó, câu chuyện ấy chưa thể nào quên đi được.
Trước khi đưa anh ra đảo, anh Vịnh và các bạn bị án tử hình bị bọn địch nhốt ở khám Chí Hoà. Suốt thời gian ấy, chúng nhiều lần tìm gặp các anh bảo làm đơn xin ân xá, nhưng câu trả lời vẫn chỉ là "Tổng thống các anh không đáng cho chúng tôi xin".
Và thế là ngày 23/8/1962, chúng đưa các anh ra đảo. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân trong và ngoài nước lúc bấy giờ, chúng chưa dám xử tử hình các anh, nhưng chúng quyết giết dần giết mòn các anh trong những xà lim cấm cố Côn Đảo man rợ, đẩy lùi các anh vào bóng tối.
Khi chiếc tàu há mồm ghé vào cầu tàu Côn Đảo, chân mang nặng xiềng xích, các anh lê đi giữa hai hàng cảnh sát và trật tự viên, thằng nào thằng nấy lăm lăm dùi cui, ma trắc trong tay, mình mẩy xăm chàm rằn ri, có thằng chỉ mặc một chiếc xi líp, lông lá bẩn thỉu, miệng gầm gừ một thứ ngôn ngữ của bầy thú dữ.
Ngay từ đầu, các anh đã chống khổ sai và các hình thức kỷ luật khác và bị chúng nhốt vào các hầm đá. Thằng đại uý Khoẻ, phó quản đốc, một tên ác ôn khét tiếng, cho gọi anh Vịnh lên và bảo anh dạy học cho con nó. Anh từ chối. Và trận đòn trả thù đến ngay lập tức.
Nhưng đòn vọt đối với anh đã thành thường lệ. Chúng đánh mỏi tay thì vứt gậy bỏ đi. Người tù yếu lả, cố lê vào đến xà lim để nằm vật xuống. Mở mắt ra chỉ thấy một lỗ cửa mờ mờ như đồng xu trước mặt. Xung quanh mình, dưới lưng, trên đầu, nền xi măng lạnh buốt ẩm ướt một thứ nước lầy nhầy thối lợm.
Tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh” của nhà thơ Ngô Minh. Ảnh tư liệu
Suốt đêm ngày, suốt năm tháng, tầm mắt không nhìn được quá hai mét. Chỉ còn tiếng muỗi vo vo như ong và tiếng thở nặng nhọc của giấc ngủ tù ngục. Niềm an ủi còn lại là biết mình vẫn giữ vững được ý chí cách mạng, và biết bên kia bức tường đá giá lạnh không hồn kia, trong xà lim bên cạnh, có những đòng chí đồng đội của mình trong gian lao tột bậc vẫn không ngừng nghĩ đến nhau, theo dõi và lo lắng cho nhau hơn cả ruột thịt.
Có lẽ niềm vui lớn nhất của người tù chính là hạnh phúc được thương yêu nhau giữa vòng vây của bầy lang sói. Và nhất là dần dần anh nhận ra rằng anh vẫn luôn luôn được chỉ vẽ từng đường đi nước bước trong gian lao, bởi vì Đảng vẫn ở bên anh, và anh vẫn không hề phải rời đội ngũ đấu tranh.
Nhớ sao những buổi chiều sau bữa cơm chiều mắm chua khô đắng, anh em vẫn vui vẫn hát, vẫn nói đủ các thứ chuyện bổ ích. Dạo ấy, anh Vịnh còn nằm ở khu D trại 7, trong những xà lim gọi là " chuồng cọp mới". Đây là một trại tập trung nhiều anh em cốt cán kiên cường nhất của đảo. Bọn địch căm thù nhưng cũng kiêng sợ anh em ở đây. Ngoài những buổi sinh hoạt chính trị thường xuyên, anh em tù hay tổ chức những cuộc nói chuyện ngoại khoá. Thôi thì đủ các thứ chuyện đông tây kim cổ, chuyện văn học nghệ thuật có, chuyện khoa học kỹ thuật có.
Anh Tư, một trong những đồng chí đóng góp nhiều trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đêm 30-4 rạng ngày 1/5/1975 ở đảo, có kể cho tôi nghe về những buổi sinh hoạt như thế và sự tham gia của anh Vịnh. Là một trí thức có trình độ văn hoá vào hạng cao nhất ở đảo, nhưng anh Vịnh vẫn biết lắng nghe người khác.
Anh tâm sự là không những mình đã lớn lên trong phong trào đấu tranh của nhân dân mà ngay trong nhà tù xiết bao khổ ải, anh cũng học tập được rất nhiều ở các đồng chí trung kiên của Đảng, những đồng chí bị đày đoạ hàng chục năm trời chết đi sống lại vẫn vững một niềm tin ở thắng lợi cuối cùng. Anh nói rất nhiệt thành :
- Có thể nói mỗi đồng chí là một tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mỗi sự tích đấu tranh là một bài học về tấm lòng son sắt với Đảng, với cách mạng. Tôi học tập được rất nhiều.
Tuy vậy, khi hỏi chuyện anh Tư và các anh chị bị giam giữ gần chỗ anh Vịnh, tôi lại biết được những hoạt động khá sôi nổi của anh, nhất là anh luôn luôn muốn truyền lại cho anh em tù những hiểu biết của mình.
Anh Tư kể lại: Khi cả khu D đã im lặng, từ phòng 40, phòng nhốt anh Vịnh, một giọng nói Huế vang lên. Lại một câu chuyện mới, lý thú bắt đầu. Cũng cần nói thêm là anh Vịnh có một giọng kể chuyện thật hấp dẫn. Lời anh bao giờ cũng lưu loát, diễn dạt chính xác điều mình định nói. Anh biết nhấn mạnh những chỗ người khác cần chú ý và dẫn dắt câu chuyện sao cho người nghe luôn luôn cảm thấy hợp lý nhưng cũng luôn luôn đột ngột. Anh là một nhà giáo mà lại là một nhà giáo có tâm hồn phong phú. Có hôm là một câu chuyện văn học.
Khu chuồng cọp trong nhà tù Côn Đảo. Ảnh tư liệu
Anh Tư còn nhớ mãi những chi tiết trong truyện Thuỷ Hử mà anh Vịnh kể. Cái bất khuất của một Lỗ Trí Thâm, cái dũng mãnh của một Võ Tòng, cái ngang tàng của một Lý Quỳ... chả lẽ lại không có cái gì đó cũng gần gũi với các anh, những con đại bàng bị giam hãm hay sao ? Nhưng thông thường anh Vịnh hay nói chuyện về khoa học, đấy vốn là nghề của anh. Anh kể nhiều đễn nỗi ở trại 7 anh em quen gọi anh là "Tư ca lo" - anh Tư Vịnh hay giảng giải về nhiệt năng trong thức ăn mà!
Kẻ thù muốn các anh quỳ gối, các anh vẫn đứng thẳng, kẻ thù muốn các anh bị cô lập, các anh đã gắn bó lại, kẻ thù muốn các anh rơi vào u tối, các anh vẫn không ngừng toả sáng.
Sau Tết Mậu Thân 1968, chúng đột ngột đưa bốn anh Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư, Lê Minh Châu và Trương Thanh Danh về Sài Gòn. Các báo Sài Gòn đưa tin: "Một chuyến phi cơ đặc biệt đã đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, chở về bốn tử tù Côn Đảo...". Có thể chúng mưu toan thủ tiêu các anh chăng ? Chỉ biết ngay sáng thứ hai ấy, chúng đã bắt các anh chào cờ. Tất cả đều từ chối.
- Tại sao các anh không chào? Tên giám thị hỏi.
- Chúng tôi chưa bao giờ chào. Vì chúng tôi là đối phương của lá cờ này, không lẽ chúng tôi lại chào lá cờ chống lại chúng tôi?
Những trận đòn man rợ ập tới. Chúng đánh toàn bằng chày vồ. Anh em có người gãy chân, gãy tay, máu me đầm đìa, thịt da tơi tả. Không đi nổi, chúng kéo liệng vào xà lim. Hôm sau gọi ra, đánh nữa. Lần ấy, anh Vịnh bị bốn trận đòn liên tục. Chúng đánh chết anh Chín Ca và chị Hai Riêng ( tức chị Lê thị Riêng ) ngay trước mắt mọi người. Còn lại chị Phùng Ngọc Anh, chúng đang tiếp tục tra khảo. Trước sau chúng vẫn chỉ hỏi một câu :
- Tại sao chống chào cờ?
Chị Anh nét mặt còn rất hồn nhiên, đáp: Con gái không lấy hai chồng nên tôi đã tâm niệm chỉ chào lá cờ cách mạng.
Chị Anh là người Hoa kiều. Nghe kể lại vậy anh em đều cười và rất mến chị.
Trong những ngày căng thẳng ở Tổng nha cảnh sát này, giữa trận đòn roi trả thù cách mạng của lũ ác ôn, anh Vịnh đã làm bài thơ Cho em. Anh Vịnh chưa có vợ và ngay người yêu cũng chưa có. Đã có lần anh mến một cô gái... nhưng câu chuyện thoảng qua như một kỷ niệm trẻ trung; công việc và tù đày chưa cho anh nghĩ đến điều đó. Anh Vịnh cười nói với tôi như vậy.
Nhưng sao bài thơ lại có nhan đề tình tứ như thế? Nhất đấy lại là một bài thơ viết trong tù?... Điều đó có lẽ phải hỏi ở trái tim nồng nàn của anh đối với cuộc sống. Xin được trích ra đây vài đoạn trong bài thơ ấy:
Anh chẳng còn gì cho em
Khi chúng đánh anh mềm
Vai ngực bầm đen
Chúng nện chày vồ
Chúng đạp giày đinh
Lên gối lên lưng
Lên chân đầm máu đỏ
Gãy tay gãy cổ
Lột da đầu thanh niên...
Anh chẳng còn gì cho em
Không gian màu đen
Thời gian là đêm
Cổ khô khát men quanh tường nóng
Nhớ sao vàng sáng chói đường giải phóng
Nhớ phút thiêng liêng ta cảm động thề nguyền
Nhớ em còn đang gian khổ đi lên...
Anh chỉ muốn giành cho em
Này là trái tim
Nồng máu đấu tranh
Đậm tình xã hội...
Với những vần thơ ấy, anh Vịnh trở lại Côn Đảo. Anh đã sống thêm 7 năm ở cái địa ngục trần gian ấy, lăn lóc từ chuồng cọp này sang hầm đá khác, thân thể thêm ốm yếu, nhưng những gì anh tâm niệm thì ngày một vững vàng hơn lên. Thêm một tuổi tù, tâm hồn anh thêm một chút kiên định. Anh đang tiến dần đến cái tuổi 40, nặng nề, mệt nhọc, nhưng bản lĩnh càng thêm vững chãi.
Những biến cố lịch sử qua đi, mảnh đất Côn Đảo nằm ru phẳng lặng trên muôn lớp sóng điệp trùng, với những ngọn núi sương phủ, những hàng dương lặng lẽ, những khu trại giam tù đọng ẩm mốc rêu phong. Nhưng dưới cái bề ngoài yên lặng ấy là những đợt sóng lừng dữ dội luôn âm ỉ đằng sau các cửa khám.
Những cuộc đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, đòi thực hiện chế độ đối với tù chính trị, đòi trao trả cho chính phủ Cách mạng lâm thời... vẫn bùng lên liên tục. Tôi nhớ đến gương mặt của bao anh chị đã kiên trung giữ vững ngọn cờ cách mạng trong lao tù Côn Đảo. Những đồng chí ấy, những bạn tù của anh Lê Quang Vịnh đã là nguồn cổ vũ cho anh trong bước đường thử thách lớn của đời mình.
Tự do
Thế là anh Vịnh đã ra tù. Ở Miền Bắc, tên anh đã đi vào bài hát, nhưng trong vùng địch tạm chiếm ở Miền Nam, kẻ thù đã cố đẩy lùi anh vào bóng tối và quên lãng. Nhưng bây giờ thì anh Vịnh đã ra tù. Các đồng chí đồng đội của anh đã giải thoát anh ra khỏi tù.
Tôi đã đến thăm "chuồng bò" và "hầm đá", những nơi anh bị giam giữ đến phút cuối cùng. Ở chuồng bò (tức trụ sở Ban an ninh Côn Đảo), anh đã bị chúng tra khảo trong một tháng rưỡi vì sự phản bội của tên Lân, một trật tự viên trong trại. Ở cái ngăn trong cùng của dãy chuồng bò, nơi trước đây đúng là chuồng bò thật sự, tôi đã tìm đến chỗ anh nằm. Một cái nền xi măng khoảng 6-7 mét vuông vây kín giữa bốn bức tường đá. Mặt nền rạn vỡ, ẩm ướt nước mưa và rác bẩn. Trên tường, máu, mồ hôi và bồ hóng đóng đen kịt.
Những ai đấy đã đi qua đây một lần không bao giờ trở lại còn để lại những nét vạch run rẩy trên các lớp vôi, những tên người, những ngày tháng... Có phải cái niêu con méo mó trong xó buồng kia anh đã từng nấu cơm, mẩu củi ướt còn cháy dở kia có ùn lên một đụn khói cay sè mắt anh, miếng khô mắm tanh tưởi và những vụn đậu nành mục rữa...
Tái hiện lại cảnh tù nhân phải lao động khổ sai trong nhà tù Côn Đảo. Ảnh tư liệu
Tôi cũng đã đến hầm đá, nơi anh bị còng đến tận 7 giờ sáng ngày 1/5/1975. Hầm đá là một dãy chuồng cửa sắt quay mặt vào bức tường cao người ta rất dễ nhầm với một dãy nhà vệ sinh vì sự tăm tối và bẩn thỉu đến cùng cực của nó.
Nơi đây, trong ngăn hầm số 7, khu trại 2, anh Vịnh đã nằm một mình suốt hai tháng. Hai tháng ấy, anh chiến sĩ Giải phóng quân đã đủ thì giờ để đi từ Buôn Ma Thuột đến Nha Trang, từ Quảng Trị đến Sài Gòn.
Cho đến 6 giờ sáng hôm ấy, anh Vịnh vẫn còn nằm trong cái biệt giam đó. Mãi đến khi có tiếng đập cửa dữ dội và một tiếng người quen thuộc gọi vào rất to:
- Vịnh. Có phải Vịnh nằm trong này không?
Và tiếng tên trật tự run run:
- Dạ, không có chìa khoá, ông trưởng trại đem đi mất.
Sau đó là tiếng búa tạ nện rầm rầm. Cánh cửa sắt nặng nề khép kín trước mắt anh suốt 13 năm qua phút chốc đã bật tung. Anh Phạm Tư ở hầm bên kia, hông mang súng ngắn, bước vào kêu lên :
- Vịnh ơi, giải phóng rồi, mình đã làm chủ hoàn toàn Côn Sơn rồi ! Hai anh em ôm nhau, nước mắt bỗng trào lên dàn dụa. Anh Vịnh gần như ngất xỉu, bước không nổi. Mấy anh khác tay cầm súng, chạy lại ôm choàng lấy Vịnh, nâng anh dậy:
- Tưởng anh còn ở chuồng bò, tìm hơi chậm... Ta đi đi, các anh đang chờ anh để bố trí công việc.
Thế là anh Vịnh đã ra tù...
Tôi nhìn vào cái băng vải trên cánh tay anh có viết giòng chữ "Đời đời biết ơn Đảng, Bác Hồ, nhân dân và quân đội đã cứu sống chúng tôi". Anh Vịnh gật đầu: Vâng, mỗi chúng tôi đều tự mình viết lấy câu khẩu hiệu đó. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng câu ấy chưa thể nào bày tỏ hết được tấm lòng biết ơn sâu nặng của mình đối với Đảng, với Bác, đối với cách mạng... Tôi chỉ có một nguyện vọng duy nhất là được hiến trọn đời mình cho nhân dân, cho Đảng, sức lực tôi còn được bao nhiêu, tôi xin được sử dụng bấy nhiêu.
Nhìn gương mặt rất tươi của anh và đôi mắt sáng lạ thường, tôi đã đề nghị anh hát cho nghe bài hát mới nhất mà anh vừa sáng tác ngay trong giờ đầu tiên được giải phóng - Bài Tự do. Xin chép lại đây mấy câu trong lời bài hát đó thay cho lời chào mà anh Lê Quang Vịnh muốn gửi đến bạn đọc:
Tự do, tự do, tự do, tự do ! Chúng ta đã có tự do... tung tăng phơi phới hát mừng thoả lòng mong ngóng. Như chim tung cánh giữa trời xanh rộng... Độc lập, tự do, ước mơ suốt đời ta đó. Giải phóng, ôi ngày giải phóng, ta vươn tay lao động, ta nâng cao cờ hồng cách mạng thành công... Ta reo hát lên đi, ta reo mừng lên đi, sáng sao là sáng, ánh sao Quốc kỳ.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.