Tuy nhiên, loại sản vật quý này đang dần mai một trước nhiều loại bia, rượu
ngoại thật, giả lẫn lộn. Dù vậy, tại tỉnh Đắk Nông, nhiều gia đình đồng bào dân
tộc M’nông, dân tộc Mạ vẫn không quên "nghề" làm rượu cần.
Rượu cần thường được uống trong những dịp như đám cưới, đám hỏi, ma chay, tết,
lễ hội, mừng thọ. Không những vậy, rượu cần còn được dùng trong lễ hội các dân
tộc có quy mô lớn, uống rượu thể hiện sự bình đẳng trong cộng đồng. Đặc biệt,
bên cạnh những chóe rượu không thể thiếu những món ăn truyền thống như cơm lam,
thịt rừng nướng, cá nướng.
Uống rượu cần trong Lễ hội mừng lúa mới. Ảnh: Thanh Hà/(TTXVN)
Bà H’Cồng, thành viên trong một gia đình vẫn giữ nét làm rượu cần truyền thống ở
bon Pi Nao, xã Nhân Đạo, huyện Đắk R’lấp cho biết: “Rượu cần gắn liền với đời
sống văn hóa tâm linh của bà con, gắn liền với từng hộ gia đình, từng buôn, từng
làng."
Rượu cần không chỉ là một thức uống quan trọng trong các nghi lễ của đồng
bào dân tộc thiểu số, mà còn thể hiện sự thành kính đối với thần linh (hay gọi
là Yàng) và còn là cầu nối liên kết mọi người trong cộng đồng.
Nguyên liệu chủ yếu để làm ra loại rượu này là gạo và men. Đầu tiên lựa chọn
loại gạo thơm ngon nhất, nấu chín để nguội, rồi trộn đều với men được chiết từ
vỏ cây rừng thành một hỗn hợp rồi ủ vào chóe. Trong các bước làm rượu cần, việc phơi
chóe rất quan trọng vì nó tạo ra rượu cần ngọt và không bị chua.
Chị H’Brêm, ở xã Đắk Nia, thị xã Gia Nghĩa cho biết: “Trước khi làm rượu thì
phải rửa chóe thật sạch bằng nước nóng ngâm lá cây rừng, lau khô, sau đó phơi
thật khô dưới ánh nắng mặt trời. Nếu thời gian phơi chóe càng lâu thì rượu cần
trong thời gian ngâm sẽ không bị chua, thơm hơn, có vị ngọt hơn.”
Rượu cần ngâm trong khoảng hai tháng có thể sử dụng được. Thời gian ủ càng lâu
thì rượu càng ngon, độ đậm đặc nước cốt tăng lên, thơm mùi của nếp và đắng của
men vỏ cây rừng.
TTXVN (Theo TTXVN)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.