|
GS-TS Bùi Chí Bửu |
Điều này diễn ra trong trong khi sản lượng lúa tăng cao là một trong những nguyên nhân khiến giá lúa giảm liên tục trong thời gian qua. Trao đổi với phóng viên NTNN, GS-TS Bùi Chí Bửu - Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam - cựu Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết, việc giảm diện tích xuống giống lúa nhằm giảm áp lực tiêu thụ lúa gạo, thay vào đó, tăng cường sản xuất rau màu nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước là điều cần thiết ở ĐBSCL.
Kết quả sau gần 13 năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xen canh luân canh các loại rau, màu trên đất lúa ở vùng ĐBSCL như thế nào, thưa Viện trưởng?
- 25 năm về trước, tỷ lệ diện tích màu trên tổng diện tích cây lương thực ở ĐBSCL đạt mức 11 - 12%. Tuy nhiên, từ thập niên 90 đến nay, khi ĐBSCL tăng cường trồng lúa, diện tích màu liên tục sụt giảm. Hiện tại, tỷ lệ diện tích màu trên tổng diện tích lương thực ở ĐBSCL rất thấp, chưa đến 4%, tỷ lệ này của cả nước khoảng 18%.
Vậy cần phải giảm bớt diện tích lúa và tăng cường sản xuất hoa màu, thưa Viện trưởng?
- Đó là việc cần thiết, phải làm trong thời gian tới. Hiện tại, ĐBSCL cần phải giảm hệ số quay vòng đất lúa để đảm bảo sản xuất lâu dài, bền vững bằng cách chuyển sang trồng xen vụ màu. Trong đó, xuân hè và thu đông là 2 vụ thích hợp nhất để chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Xuân hè thì chuyển sang trồng màu càng sớm càng tốt. Còn thu đông, theo tôi, ĐBSCL chỉ cần giữ ổn định diện tích lúa thu đông ở mức 400.000 - 500.000ha.
|
Việc tăng cường trồng màu ở ĐBSCL sẽ góp phần giảm áp lực tiêu thụ lúa gạo. |
Đã có chủ trương từ năm 2000 và có nhiều mô hình thí điểm nhưng tại sao đến nay, các mô hình này vẫn chưa thể nhân rộng được, thưa ông?
- Trước hết, do hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL chủ yếu phục vụ sản xuất lúa gạo, mà nhu cầu về nước của cây màu và thủy sản khác cây lúa. Việc điều chỉnh hài hòa hệ thống thủy lợi, vừa phục vụ sản xuất lúa và phát triển rau màu sẽ phải tốn rất nhiều thời gian và tiền của. Thứ hai, ĐBSCL chưa có các quy hoạch vùng cụ thể, thích hợp với điều kiện hiện có của từng vùng thổ nhưỡng và cho từng loại cây màu. Thứ ba, do chưa có hướng giải quyết đầu ra cho nông dân. Hơn nữa, các sản phẩm màu như bắp (ngô), đậu nành chủ yếu phục vụ chế biến thức ăn gia súc, trong khi đó hầu hết các nhà máy chế biến thức ăn gia súc hiện nay tập trung tại vùng Đông Nam Bộ.
Việc chuyển một phần diện tích lúa sang trồng màu là điều cần thiết phải làm, tuy nhiên, phải đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Nếu không, cây màu rồi cũng sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn được mùa, rớt giá như bao cây khác ở ĐBSCL”.
GS-TS Bùi Chí Bửu
Nếu giải quyết được 3 vấn đề trên, khả năng trồng màu, cụ thể là bắp và đậu nành của ĐBSCL sẽ thay đổi như thế nào?
- ĐBSCL có thể tăng diện tích đậu nành lên 100.000ha trong vụ xuân hè, tuy nhiên, phải với điều kiện là tìm ra được giống đậu nành chịu ngập. Về năng suất, đậu nành trồng ở ĐBSCL có thể đạt 3,5 – 4 tấn/ha. Đối với bắp, khả năng tăng năng suất bắp lai tại ĐBSCL lên 8 – 10 tấn/ha không khó. Tuy nhiên, phải đảm bảo được đầu ra cho nông dân mới có thể tăng diện tích.
Có ý kiến cho rằng, giá thành sản xuất đậu nành và bắp ở Việt Nam cao hơn nhiều so với nhập khẩu khiến các sản phẩm này không có khả năng cạnh tranh?
- Giá thành cao vì hơn 30% diện tích trồng bắp trong nước nằm ở vùng đất đồi núi xa xôi như Sơn La, Lai Châu… với năng suất còn rất thấp. Bắp ở Tây Nguyên đạt năng suất cao hơn, khoảng hơn 6 tấn/ha nhưng vùng này lại không chủ động nước tưới. Trong khi đậu nành thì bà con phun thuốc bảo vệ thực vật và sử dụng phân đạm quá nhiều khiến chi phí giá thành đội lên. Hơn nữa, thất thoát sau thu hoạch đậu nành ở ĐBSCL cũng rất cao do chưa cơ giới hóa.
Xin cảm ơn ông!
Thuận Hải (thực hiện)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.