Truyện dự thi: Ánh sáng trắng

Thanh Huyền Thứ hai, ngày 26/10/2020 08:00 AM (GMT+7)
Tác phẩm tham gia cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập" của tác giả Thanh Huyền (Vĩnh Long).
Bình luận 0

Nghe tiếng con Na sủa dồn, bà Chín hai tay đang chắt nước nồi cơm, ngoái đầu ra cửa, miệng không ngớt la con chó:

- Na! Na! Vô nhà!

Bà Chín lên tiếng cho khách yên tâm, chớ bà biết ý con Na. Nó hiền lắm. Bà nuôi nó đến nay cũng đã chục năm nhưng chưa bao giờ nó cắn ai, ngay cả khi bà xin con mèo bé tí về nuôi trong nhà, con Na cũng tỏ ra thân thiện. Nó chỉ đố kỵ có mỗi loài chuột, khi thấy con chuột nào chạy vụt qua là nó rượt cho bằng được. Bởi vậy bà Chín rất mến con vật trung thành này.

Nghe tiếng bà Chín, con Na thôi không sủa, nó ngoe nguẩy cái đuôi ngăn ngắn rồi đi vào nhà ngước mắt nhìn bà Chín. Bà đặt lại nồi cơm trên bếp, gạt bớt lửa chỉ chừa một ít than ước chừng đủ cho cơm chín tới. Bà vỗ nhẹ đầu con Na, vội vàng bước ra cửa. Bà nheo mắt, lấy tay che trước trán, hỏi:

- Có chuyện chi không cháu?

- Dạ, bà Chín cho con gửi cái thư mời, mai tám giờ họp ở trụ sở ấp nhe bà Chín!

Bà Chín nhận thư rồi đi thẳng lại đầu tủ thờ lấy cái kính lão. Bà nằm trên chiếc võng, thủng thẳng mở thư ra xem. Con Na nằm khoanh dưới chân bà, lim dim đôi mắt.

Truyện dự thi: Ánh sáng trắng - Ảnh 1.

Bà Chín không đi học ở trường nhưng bà cũng biết đọc, biết viết nhờ mấy anh, chị của bà chỉ dạy. Để đọc hết cái thư từ đầu tới cuối bà mất rất nhiều thời gian vì bà đọc rất chậm. Nhiều lần đọc thư mời, bà rút được kinh nghiệm. Phần chính của thư mời nằm ở đoạn giữa, bà chỉ cần đọc nội dung, thời gian, địa điểm là đủ. Thời gian, địa điểm thì cháu đưa thư đã nói rồi "mai tám giờ họp ở trụ sở ấp", còn nội dung là điều bà cần biết. Miệng bà lẩm bẩm: "Nội- dung- họp- dân- bàn- việc- kéo- điện- về- địa- phương". Bà ngồi bật dậy, kêu lên:

- Thật không vậy Trời!

Con Na cũng giật mình mở mắt, nó đứng bật dậy, vươn dài hai cái chân sau rồi đứng đối diện chủ nhà, đưa mắt nhìn vẻ mặt khác lạ của bà. Con Na thấy đôi mắt bà chớp chớp rất nhanh, khi dừng lại thì tròng mắt ươn ướt, rồi có giọt nước từ từ trào ra khỏi hai khóe mắt bà. Con Na dụi dụi đầu vào chân bà, một cử chỉ thân thiện của nó đối với chủ nhà khi bà Chín có chuyện không vui.

Nhưng con Na đâu biết biểu cảm của con người, khóc không hẳn là buồn. Bà Chín đang vui đó chứ! Bà lấy tay áo quệt ngang mắt rồi cười xòa xoa đầu con Na:

- Sắp tới cù lao mình có điện rồi, sung sướng rồi nhen Na!

Bà bước vội lên nhà trên, đến bàn thờ cha mẹ đốt nhang khấn vái:

- Tía má ơi, quê mình sắp có điện rồi đó! Niềm ao ước của tía má có thật rồi, tiếc là tía má không còn.

Bà nhìn thật lâu vào di ảnh của cha mẹ, đôi mắt song thân bà buồn quá. Đôi mắt mà từ lúc bà mới lớn, biết cảm nhận về cái xấu, cái đẹp cho đến khi cha mẹ khuất núi, lúc nào đôi mắt ấy cũng nhìn bà với nỗi niềm xót thương, hối hận.

***

Mặt trời lặn khuất sau rặng bần. Từng đàn gà kéo nhau về chuồng. Bé Hai í ới gọi mấy đứa em còn đang chơi trốn tìm vào nhà. Trời chạng vạng, chúng lại trốn ngoài đống rơm, bụi chuối, vựa củi, … những nơi ấy thường là chỗ ẩn núp của rắn, rết rất nguy hiểm. Tía, má căn dặn hoài mà có đứa nào nghe, tụi nó khi chơi rồi thì mắc ngây quên trời sớm, tối. Tiếng thằng Bé Tư trì hưỡn:

- Chút xíu nữa chị Hai, em kiếm được thằng Bé Năm rồi, còn thằng Bé Sáu không biết nó núp chỗ nào?

Bé Hai cầm cây roi xăm xăm lại đống rơm:

- Nghỉ chơi đi! Bé Sáu ra chưa hay là muốn ăn roi?

Bé Sáu từ trong bụi chuối chạy vụt ra, rồi cả ba đứa cùng chạy ùa vào nhà. Bé Hai đi sau tay vẫn cầm cây roi đe dọa, vẻ mặt hậm hực, coi cũng oai quyền lắm lắm.

Tía, má thương Bé Hai lắm, đúng là "ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng". Má sinh liền tù tì, đứa này tuổi Tỵ thì đứa kia tuổi Mùi. Bé Hai rồi đến Bé Ba, … bây giờ đã là Bé Chín (chín tháng tuổi), định đặt tên Bé Út nhưng chắc gì đã thôi, có người còn sinh tới thứ mười bốn, mười lăm. Nghĩ mà ngán. Thật ra má có ham chi con đông, mỗi lần đau đẻ là một lần "chết đi sống lại", nhưng không biết phải làm sao?!. Ông bà xưa cũng vậy chứ đâu ai có "bí kíp" gì đâu mà truyền lại. Bé Hai sáu tuổi là biết trông em, tám, chín tuổi làm tất cả công việc nhà mỗi lần má đi sanh em bé. Hàng xóm lại nhà thấy con bé tấm tắc khen: "Con nhỏ đẹt ngắt mà nhanh nhẹn, giữ em, nấu cơm, giặt đồ gọn khô. Giỏi thiệt!".

Nhà khó khăn, con đông, tía, má hết ngoài ruộng, vườn thì xuống sông chài lưới tìm kiếm cái ăn. Bé Hai ở nhà trông em. Ngoại trừ hai đứa em kế lúc đó Bé Hai còn nhỏ chỉ chơi với em, đến đứa thứ ba là Bé Hai biết chăm sóc em rồi.  Nó chăm em "rành" đến nỗi em bé phát triển đến giai đoạn nào nó cũng biết, 4-5 tháng thấy em nghiêng nghiêng cái mông là biết em sắp lật, trườn, 6-7 tháng em hơi nóng sốt, khóc nhè là biết dấu hiệu em sắp mọc răng, ăn dặm. Những lúc ấy Bé Hai cũng biết lấy khăn nhúng nước cho ráo rồi lau cho em bớt khó chịu, bớt khóc. Bé Hai cho em ăn dặm rất "chuyên nghiệp". Ở thôn quê nghèo khó, sữa là một thức uống xa xỉ chẳng gia đình nào dám mơ tới. Đến tuổi ăn dặm, mới đầu cũng chỉ là tập cho em bé uống nước cơm pha chút đường, sau đó tập em ăn cơm nghiền. Bé Hai nấu cơm, trước khi chuẩn bị chắt nước cơm, Bé Hai múc một ít cơm (còn nước) cho vào cái chén riêng. Chắt nước cơm xong, Bé Hai lấy chén cơm để lại vào giữa nồi cơm, đậy nắp lại. Khi nồi cơm chín, phần cơm trong nồi ráo nước để người lớn ăn, nhưng phần cơm trong chén thì chín, nhão để em ăn dặm. Bé Hai chan tí nước cá kho vào chén cơm nhão, bỏ vô ít thịt cá đã gỡ xương kỹ càng, dùng muỗng nghiền cơm và cá cho nát nhuyễn quyện vào nhau, đút cho em tập ăn. Bằng cách này, em rất mau biết ăn và cứng cáp.

Mười sáu tuổi, là chị của bảy đứa em, Bé Hai vất vả với năm thằng em trai liên tục. Bé Ba giờ lớn một chút, ngoài lúc đi học còn biết phụ tía đi ruộng, đi chài, lưới, còn lại sàn sàn một lứa đang tuổi ăn, tuổi ngủ. Lúc chúng nó giỡn thì leo, trèo, chạy, nhảy đùng đùng, chơi trò mạnh tay, mạnh chân, cười nhiều mà khóc cũng nhiều, những lúc đau khóc thì méc chị Hai phân xử. Bé Tám, Bé Chín là gái. Bé Tám được hơn hai tuổi, còn Bé Chín mới được chín tháng. Tối năm thằng con trai ngủ chung một giường, Bé Hai ngủ với Bé Tám, tía má ngủ với Bé Chín.

Hồi chiều con heo nái có dấu hiệu sắp đẻ. Tía đem rơm bỏ vào chuồng cho nó nằm nhưng chỉ được một lúc là nó lại đứng lên, đi quanh quẩn năm ba bước rồi lại nằm xuống, cắn phá máng ăn, hất tung rơm rạ lót trong chuồng . Má kêu Bé Hai tối nay dỗ Bé Chín ngủ, tía má thức đỡ đẻ cho heo.

Vô tới cửa nhà, Bé Hai quăng cây roi vào đống củi trước sân, ra lệnh:

- Rửa mặt mày, tay, chân cho sạch sẽ rồi lên giường đi. Đứa nào có bài thì lấy ra học. Con heo sắp đẻ rồi, không có giỡn la om sòm nó nín đẻ đó nhe!

Mấy đứa em răm rắp làm theo, mỗi đứa lấy hai chiếc dép, không cần phải đúng đôi, chiếc đực chiếc cái, chiếc lớn chiếc nhỏ, chỉ để mang đỡ chút xíu buổi tối lên giường cho sạch sẽ, sáng lại thì ai ai cũng chân đất.

Bé Hai ẵm em bé qua ngủ với mình và Bé Tám, Bé Ba dạy kèm cho Bé Năm đang học lớp bốn, Bé Tư dạy cho Bé Sáu đang học lớp hai, Bé Bảy chưa đến tuổi đi học. Nhìn mấy anh đọc đọc, viết viết, Bé Bảy cũng chẳng chịu ngồi yên, nó rình lấy cây viết chì của Bé Sáu rồi vẽ rồng vẽ rắn vào tập anh, bị phát hiện hai đứa giành giật nhau la chí chóe. Bé Hai vội đem cả Bé Bảy vô mùng mình dỗ dành để cho mấy em khác tập trung học.

Bé Hai chịu nhiều thiệt thòi, chị cả em đông nên chỉ học hết lớp 1, biết được "mặt chữ" thì nghỉ ở nhà phụ tía, má. Nhà chỉ có Bé Ba và Bé Tư học hết lớp 5. Trường gần nhà cũng chỉ dạy hết cấp một, nếu muốn học cấp hai phải đi xa và đường đến trường khó khăn vô cùng, vậy nên trẻ con xứ này học đến lớp 5 là dừng lại.

Ngoài chuồng, con nái đẻ được bốn con rồi. Theo kinh nghiệm, má nhìn bụng của nó phải trên chục con chứ không ít. Má "có tay" nuôi heo nái lắm, đẻ sai mà con tốt, khỏe mạnh nữa. Má nói con vật cũng như con người, hễ là con cái thì phải sinh đẻ mới duy trì nòi giống, nhưng con người mỗi lần sinh có một con mà đau thấu trời, còn con heo sinh một lần mười mấy con, thấy tội cho nó quá. Má chăm sóc con nái rất kỹ, từ lúc phối giống cho đến đẻ con, mà thương nhất là lúc nó đẻ, nằm thở ì ạch, gặp con nào đẻ thuận thì còn nhanh, nếu đẻ khó thì cũng phải vài tiếng đồng hồ mới xong.

- Được mấy con rồi má?

Trời tối om, ngọn đèn dầu chỉ đủ chút ánh sáng chỗ heo nằm, Bé Hai đứng sát chuồng heo lúc nào tía, má chẳng hay.

- Được bốn con rồi, sao nó dừng lại lâu quá. Em ngủ rồi hả?

- Bé Tám với Bé Chín ngủ rồi. Con ẵm Bé Tám đưa qua giường má cho rộng bị vì thằng Bé Bảy nó "quậy" mấy anh nó học không được, con đem nó vô mùng ngủ chung với con và em bé, mà nó còn thức.

- Thôi vô coi tụi nó ngủ đi, con heo này đẻ khó chắc tới khuya mới xong à!

Má nói chưa dứt tiếng, nghe trong nhà nhiều tiếng la thất thanh: "Cháy mùng! Cháy mùng!".

Tía, má và Bé Hai chạy vội vào nhà, thấy Bé Ba, Bé Tư đang cầm cái mền đập lia lịa vào cái mùng em bé đang ngủ. Má chạy nhanh về phía giường em bé, ngay lúc tía cũng vừa kịp lấy cái bao bố tời nhúng vào lu nước chụp vào đám lửa. Má bồng em bé ra, em khóc ngất, mặt, cổ em bị bỏng nặng. Tía nhanh nhảu thảy hai bó lá dừa bằng ôm tay xuống xuồng, má ngồi ẵm em bé, Bé Ba ngồi trước xuồng cầm đuốc rọi đường cho tía chèo. Qua con sông rộng gần ba cây số mới có chợ nhỏ, bên đó mới có thầy thuốc chữa trị. Đêm tối vắng lặng, tiếng khóc của Bé Chín nghe xé lòng. Tía là dân chài, việc chèo xuồng quen thuộc như cơm bữa, bây giờ dùng hết sức lực để chèo mà sao cảm giác xuồng nặng trịch, trôi đi chậm quá.

Má chẳng có gì dỗ dành Bé Chín ngoài bầu sữa nóng. Má đưa vú vào miệng em, nó mới vừa ngậm thì lại nhả ra khóc lớn. Má định kêu Bé Ba đem cây đuốc lại gần cho má thấy cái miệng em rõ một chút, xem coi phỏng nhiều hay ít, nhưng tự dưng má ám ảnh ngọn lửa nên thôi. Má cố gắng dỗ dành, khóc một lúc, em đã thấm mệt và có lẽ bớt đau, em chịu ngậm vú má bú no rồi từ từ chìm vào giấc ngủ.

Bé Hai nhìn mấy đứa em mặt tái mét. Nó cũng vậy, vẻ mặt thất thần. Nó gọi mấy đứa em lại hỏi lý do.

Bé Tư nói:

- Anh Ba và em đang dạy Bé Năm và Bé Sáu học bài, tự nhiên nghe tiếng thằng Bé Bảy la lên, nhìn qua thấy cháy mùng.

Bé Hai nhìn Bé Bảy:

- Em đem đèn vô mùng làm gì?

Bé Bảy lí nhí:

- Em kiếm cục kẹo si-gum này nè!

Vừa nói Bé Bảy vừa xòe bàn tay đưa ra cục tẩy nửa đỏ, nửa xanh, hai đầu cục tẩy  có nhiều vết cắn nham nhỡ.

Bé Sáu giựt lấy cục tẩy:

- Hèn gì nãy giờ tao kiếm không gặp. Cái này là cục tẩy chứ có phải cục kẹo đâu mà ăn!

Bé Bảy cúi mặt nhìn xuống đất như một kẻ biết lỗi. Trong tâm trạng sẵn sàng chờ đợi sự trừng phạt của chị Hai, nó cũng nhận thức được lần này lớn chuyện, chắc là no đòn. Nó không dám ngước nhìn chị Hai, nhưng trong đầu nó hiện lên hình ảnh chị Hai xăm xăm đi ra đống củi trước sân lấy roi dọa đánh mỗi khi em phạm lỗi. Nhưng chị Hai không như thường ngày, chị im lặng và không la rầy nó tiếng nào. Nó lấm lét nhìn chị Hai, chờ đợi …

Bé Hai kêu em vô mùng ngủ, thổi đèn. Mấy đứa em nằm im, không đứa nào đùa giỡn. Đêm tối mịt, tĩnh lặng. Bé Hai thấy lòng dằn vặt, không biết tía chèo tới chợ chưa? Bé Chín ơi em có sao không? Lỗi tại chị! Phải chi… Phải chi… Nước mắt nó tuôn dài.

Hai ôm lá dừa dùng để làm đuốc đã hết, nhưng cũng không cần thiết nữa. Một vùng ánh sáng trắng tỏa ra từ những bóng đèn nê-on, đó là chợ. Tía cứ nhắm hướng ánh sáng trắng mà chèo tới. Bé Ba lấy cây dầm bơi phụ với tía. Xuồng cập bến nhà sàn của ông thầy Sáu khoảng tám giờ tối. Giờ này ở chợ còn nhộn nhịp. Gánh hát lô tô sôi động một góc chợ. Thanh niên nam nữ còn tụ tập đàn hát ở mấy cái quán cóc cạnh bờ sông. Người già không thích ồn ào nằm nhà xem truyền hình giải trí.

Thầy Sáu ngoài sáu mươi tuổi, ông bị tật một chân do di chứng của trận sốt bại liệt từ nhỏ. Cái chân bị tật teo nhỏ hơn chân thường một tí, nhưng ông tự đi được không cần dụng cụ hỗ trợ. Do khuyết tật, di chuyển chậm chạp, nên khi học hết tú tài ông chọn nghề thầy thuốc. Ông theo học khóa y tá và mở phòng khám tại chợ nhỏ này. Ông rất tận tâm với bệnh nhân và ông rất yêu trẻ con. Thường em bé bệnh đến ông hay quấy khóc nhưng ông dỗ dành chứ không quát mắng. Mấy chị em của Bé Hai sổ mũi, ấm đầu đều qua ông trị bệnh. Tám đứa rồi nên tía, má đã là "người quen" của thầy.

Bé Ba cầm lấy dây xuồng bước lên bờ cột vào gốc cây trứng cá. Tía gác đôi chèo lên xuồng rồi hai tay vịn chặt vào trụ xi măng nhà sàn giữ cho chiếc xuồng được thăng bằng. Má ẵm em bé bước lên nhà thầy Sáu. Vừa thấy má, thầy lên tiếng:

- Sao nhõng nhẽo giờ này?

Má vừa trả lời, vừa lấy tay mở cái khăn quấn em bé:

- Bị phỏng thầy ơi!

Em bé đang ngon giấc bị đánh thức, cơn đau trở lại, em khóc ngất.

- Trời ơi sao bất cẩn quá vầy nè! Thầy Sáu thảng thốt.

Thầy lấy thuốc rửa vết thương rồi băng bó những chỗ cần thiết. Thầy kêu tía, má đi liền lên nhà thương tỉnh vì thầy không có khả năng chữa trị những vết phỏng dầu hỏa sâu như thế.

***

Sau hai tháng chữa trị, Bé Chín được cho về nhà. Những nơi phỏng ít da non kéo lại nhìn không thấy rõ, nhưng gương mặt thì bị biến dạng. Hai gò má da bị co dúm lại, nhăn nhúm, đôi mắt cũng bị ảnh hưởng nhìn xa không thấy rõ, cái cổ một vài chỗ da bị mất sắc tố trở nên trắng bệch, loang lổ.

Bé Chín trở về không còn đau đớn nữa, nhận ra gương mặt thân quen của các anh chị, miệng em cười toe. Bé Tám sợ không dám đến gần em, nó từ chối nói không phải em bé của nó. Bé Hai ra sau hè khóc nức nở, còn mấy anh trai của Bé Chín thì im lặng. Tía, má đau tận tâm can.

Năm tháng trôi qua, các chị, các anh cũng đã có gia đình riêng, chỉ còn Bé Chín ở lại với tía, má. Trước kia có chàng trai cùng xóm nhưng bị khiếm thị từ nhỏ, gia đình có đến dạm lời cưới Bé Chín cho con trai họ. Nhưng Bé Chín suy nghĩ mãi, cuối cùng cô từ chối. Cô cũng thương cảm cho chàng trai kia và cũng muốn tìm một mái ấm cho riêng mình để tía, má yên lòng, nhưng nghĩ đến chuyện con nít trong xóm nhìn thấy cô là trốn chạy, ngay cả những đứa cháu trong nhà chẳng dám lại gần, nên thôi.

***

Hơn bảy giờ, bà Chín đội cái nón lá, khép hờ cánh cửa nhà đến trụ sở ấp để họp. Con Na đi theo. Bà kêu nó giữ nhà, nhưng nó đã chạy trước bà. Bước lên giữa cây "cầu khỉ", nó đứng đó ngoảnh lại chờ bà.

Con đường từ nhà bà Chín đến trụ sở ấp không xa, nhưng hơi khó đi vì mới trải qua một trận mưa đêm. Giờ này ánh mặt trời đã lên bằng ngọn tre nhưng vẫn chưa đủ để ráo lớp đất mặt đường. Bà Chín vo ống quần cao quá gối, các ngón chân bấu xuống đất, lâu lâu nghe tiếng "úi trời" vì đường trơn trợt. Con Na thì khỏi nói, nó đâu có đi, nó chạy, chạy trước bà Chín một đổi rồi chạy ngược trở lại sau lưng bà. Cứ thế, chạy đi rồi chạy lại, dấu chân con Na in đầy trên con đường đất.

Trụ sở ấp mới được dựng lên cách đây vài tháng. Trước kia họp dân thường mượn nhà dân nào thuận tiện tổ chức họp, nhưng có nhiều ý kiến nên có trụ sở riêng để còn sử dụng nhiều việc khác. Thế là thanh niên đốn cây xẻ ván đóng vách, phụ nữ chầm lá… Chỉ toàn cây nhà lá vườn, trụ sở được hình thành nhanh chóng. Hôm nay trụ sở được trang trí bằng những tấm tranh cổ động nhiều màu sắc dán trên vách, trông có vẻ sôi động hẳn lên. Nhiều bà con đến trước ngồi bàn chuyện lúa thóc, cây trái, heo gà…, trao đổi kinh nghiệm với nhau nghe rôm rả.

Bà Chín bước xuống cầu bến để rửa chân, xổ cái ống quần xuống, lấy nước vuốt vuốt mấy vết bùn bắn trên quần. Một chiếc xuồng cập bến chở năm cán bộ "lạ hoắc", ăn mặc tươm tất cũng vừa trờ tới. Chú cán bộ ngồi trước mũi xuồng cầm cây dầm điều khiển đưa xuồng vô bờ, nhìn bà Chín cười toe:

- Khỏe hôn bà Chín?

Bà Chín nheo nheo mắt chưa kịp trả lời, chú cán bộ nói tiếp:

- Con là Út Miết nè!

Tưởng ai, hóa ra thằng Út Miết. Xém chút nữa bà Chín nhận không ra nó luôn. Hồi năm Luật Người cày có ruộng, ông nội nó thuộc thành phần bần nông nghèo không có đất canh tác, được cấp mười hai công đất. Vì là đất cấp, cấp đâu nhận đó, nên ruộng lúa và nhà của ông nội Út Miết không gần nhau. Mỗi lần đi ruộng là phải đi nhờ ngang qua vườn nhà tía bà Chín. Sinh thời, ông nội rồi đến đời ba của Út Miết, họ rất quí mảnh đất này. Dù bao lần khó khăn nhưng họ nhất quyết không cầm cố, sang nhượng. Thường ngày Út Miết đi ruộng, ngang nhà bà Chín, con Na không hề sủa một tiếng nào, nó quen thuộc như người nhà. Bà Chín cũng quen với bộ dạng Út Miết đội cái nón lá, quần áo dính phèn đất vàng khè, chân cẳng bùn sình lấm lem, có lúc vác cuốc, vác phản, vác phân bón hay quảy bình xịt thuốc… Hôm nay nhìn Út Miết khác hẳn, quần tây áo sơ mi trắng bỏ trong quần, tóc thì chải tém bảy ba, đường ngôi rẽ rành rạnh, không lạ sao được!

Hồi mới giải phóng, Út Miết được mười ba, mười bốn tuổi gì đó. Tính nó nhanh nhảu, nhạy bén, thích nơi nhộn nhịp đông người… Những lúc thấy anh cán bộ văn hóa thông tin của ấp vác cái loa phóng thanh đi từ đầu ấp đến cuối ấp thông báo bà con nhận dầu lửa, vải, nhu yếu phẩm…, nó đi theo anh cán bộ đến giáp ấp rồi mới chịu quay về nhà. Nhiều lần nó đứng trước sân nhà, bắt chước anh cán bộ thông tin, cuộn tròn quyển tập thành cái loa. Nó pha trò:

" Líu! Líu!

Chối tung, bin thông tan

Xin thao bống cho tất cả a bồng các bố…".

Ai đi ngang qua thấy điệu bộ Út Miết cũng chợt cười, không biết nó nói tiếng gì mà nghe không được. Hôm bữa, nó đang "líu, líu" thì ông Hai hớt tóc trong xóm đi tới. Ông đứng đợi cho nó đọc hết, rồi hỏi:

- Mày đọc tiếng gì vậy Út Miết?

- Dạ, tiếng Việt đó ông Hai!

- Tiếng Việt mà sao tao không nghe được. Mày đọc chậm lại thử coi!

Út Miết cười lém lỉnh, trong đầu nó nghĩ: "Con có chậm cỡ nào ông Hai cũng vô phương biết được!". Nó cuộn tròn cuốn tập đưa lên miệng nói to và chậm rãi:

- Líu! Líu! Chối tung, bin thông tan

Ông Hai ngắt ngang liền:

- Khoan! Khoan! Dừng lại đó!

Ông xòe bàn tay đếm ngón:

- Mày mới đọc bảy chữ, mà tao nghe có chữ nào tiếng Việt đâu?

Út Miết mặt câng câng:

- Tiếng Việt đó! Con đố ông Hai nghĩ ra!

- Tao chịu thua cho lẹ, mày nói thử coi!

- Ông Hai thua con cái gì con mới nói?

- Tao hớt tóc cho mày không lấy tiền, được chưa?

Út Miết "dạ" một cái rụp, thủng thẳng giải thích:

- Ông Hai nghe rõ nhen! Lưu ý con nói láy là li ú, đọc dính lại là "líu". Chúng tôi là "chối tung", Ban Thông tin là "bin thông tan", thông báo là "thao bống", ông bà cô bác là "a bồng các bố". Nguyên câu nó là vầy: Lưu ý! Lưu ý! Chúng tôi Ban Thông tin. Xin thông báo cho tất cả ông, bà, cô, bác. Đó, con nói tiếng Việt mà ông Hai không tin.

- Thôi tao về, rối não với mày. Mai mốt lại hớt tóc nhớ nhắc tao nhen!

Từ lúc đó Út Miết bị ông Hai hớt tóc gọi "chết danh" là "thằng Líu", trẻ con trong xóm thấy Út Miết chúng nó cũng trêu chọc: "Líu! Líu!". Vài năm sau, Út Miết được nhận vào cộng tác Ban Thông tin của ấp.

Cuộc họp hôm nay Út Miết là người điều khiển chương trình. Qua lời giới thiệu đại biểu, bà con mới biết mấy người "lạ hoắc" đi với Út Miết là cán bộ của tỉnh, huyện xuống dự. Họ đi khảo sát vòng quanh cù lao từ ngày hôm trước, sau đó về bàn bạc với cán bộ xã, ấp trước khi họp dân hôm nay. Thông thường ít khi nào bà con dự họp đông đủ nhưng hôm nay mỗi nhà cử một người đại diện đến họp, đủ biết mức độ quan tâm của họ đến vấn đề này như thế nào. Hầu hết mọi người còn ngờ vực và cùng chung một dấu hỏi lớn: "Có thật không? Kéo điện bằng cách nào, trong khi cù lao nằm giữa sông nhìn đâu cũng thấy nước như vầy?".

Sau lời giới thiệu của Út Miết, ông chủ tịch huyện phát biểu:

- Kính thưa bà con! Huyện ta có mười lăm xã, trong đó có hai xã cù lao, cách biệt đất liền. Do không có điện và giao thông khó khăn nên hai xã xếp vào loại vùng sâu, vùng xa không phát triển được. Đây là sự thiệt thòi của người dân hai xã và cũng là nỗi trăn trở của các cấp lãnh đạo. Hôm nay tôi rất vui mừng thông báo với bà con, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay, cù lao chúng ta sẽ được có điện thắp sáng trong năm nay.

Tiếng vỗ tay đồng loạt vang lên. Ông Hai hớt tóc nhanh miệng:

- Thưa cán bộ! Gần hết đời mà tui coi cải lương chưa đã. Nghe nói kéo điện về cù lao tui mừng không ngủ được. Nhưng bà con còn nửa tin, nửa ngờ, xin hỏi cán bộ:  Làm sao mấy chú kéo điện qua được con sông lớn như vầy ???

Ông cán bộ điện lực của tỉnh đỡ lời ông chủ tịch huyện:

- Thưa bà con! Việc làm sao kéo được điện về cù lao thuộc chuyên môn do bên điện lực tụi cháu đảm trách. Sơ lược cho cô bác hình dung, phương án đưa điện lưới quốc gia về cù lao bằng tuyến cáp ngầm xuyên qua sông lớn đó.

Bà con trố mắt, xuýt xoa: "Trời đất!", "Không ngờ!", " Hay thiệt!"…

Ông cán bộ điện lực nói tiếp:

- Vấn đề ở đây là khi kéo điện đi qua vườn cây ăn trái của cô bác, những cây cối dưới hành lang lưới điện phải đốn hạ cho trống để đảm bảo an toàn, thì cô bác có sẵn lòng không ạ?

Bà con lao xao:

- Chuyện nhỏ mà!

- Đất vườn thiếu gì, đốn một vài cây mà nhằm nhò gì!

- Mất một chút mà được có điện xài, sướng muốn chết!

Cán bộ bắt đầu cung cấp thông tin cho bà con về những tiện ích mà điện mang lại, nào là giải phóng sức lao động cho người nông dân, cho các bà nội trợ; nào là cơ sở hạ tầng như giao thông, trường học, y tế, thông tin liên lạc, giải trí, du lịch… cũng sẽ được đầu tư đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân. Mỗi một lĩnh vực, cán bộ liên hệ một công việc cụ thể, ví như anh nông dân, sau này không còn xách thùng vòi hoa sen đi tưới cây nữa mà chỉ cần đóng cầu dao điện toàn bộ hệ thống tưới phun sẽ tưới cây cả khu vườn; hay các chị phụ nữ nấu cơm, giặt đồ chỉ cần bấm nút là có máy làm thay; hay các ông, bà lớn tuổi tha hồ mà coi cải lương, giải trí… Cuộc sống người dân cù lao sắp tới tiện nghi không khác gì ở đất liền.

Bà Chín ngồi im một góc, quan sát thấy bà con đồng tình hưởng ứng quá chừng, đoán chắc vụ kéo điện sẽ được triển khai thực hiện trong thời gian sớm, lòng bà cũng mở cờ trong bụng.

Tan buổi họp, bà con ra về vui mừng hỉ hả. Được nghe tận tai mấy chú cán bộ nói, bà con tin thật rồi, thiệt là mừng không sao tả nổi. Không bao lâu nữa, một thứ ánh sáng trắng không còn dành riêng nơi đô thị, nó sẽ được lan tỏa khắp vùng quê, cù lao sẽ được thay áo mới, lớp trẻ sẽ không còn vất vả, thiệt thòi như ông, bà của chúng ngày xưa.

Lúc này mặt trời đã lên cao, nắng chiếu xuống mặt đường ráo hoảnh. Bà Chín đi được một đoạn, định ngoái lại tìm con Na. Nhìn xuống mặt đường, bà thấy bóng nó phía sau sát bên chân bà. Bóng bà Chín và con Na quyện vào nhau, đổ dài trên con đường đất.

Truyện dự thi: Ánh sáng trắng - Ảnh 2.

 

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem