Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Vụ án Nguyễn Văn Chưởng xảy ra đã khá lâu, Chưởng bị bắt ngày 3/8/2007, đến nay đã tròn 16 năm, vậy ông tiếp cận vụ án này như thế nào?
- Năm 2013, lúc tôi công tác ở Ban Nội chính Trung ương, hàm Vụ trưởng Vụ 4, tôi được ông Nguyễn Bá Thanh - lúc đó là Trưởng Ban Nội chính Trung ương phân công làm Tổ trưởng Tổ kiểm tra án có dấu hiệu oan. Tổ của chúng tôi đã kiểm tra một số vụ án có đơn kêu oan, trong đó có vụ án Nguyễn Văn Chưởng để báo cáo.
Sau khi Tổ Kiểm tra của chúng tôi làm việc với các cơ quan chức năng (Tòa án Nhân dân Tối cao, các cơ quan tố tụng của thành phố Hải Phòng), đã có báo cáo việc cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tuyên án tử hình đối với Nguyễn Văn Chưởng có dấu hiệu oan. Thời điểm đó, chúng tôi muốn vào gặp tử tù Nguyễn Văn Chưởng nhưng phía công an không cho.
Vậy căn cứ vào đâu ông cho rằng Nguyễn Văn Chưởng có dấu hiệu bị oan?
- Thứ nhất, qua nghiên cứu hồ sơ cho thấy, cơ quan điều tra đã có những dấu hiệu vi phạm tố tụng. Cụ thể, về khám nghiệm và bảo vệ hiện trường có dấu hiệu sai sót: Vụ án giết người xảy ra hồi 21h ngày 14/7/2007 (thời điểm đó khu vực hiện trường trời mưa), nhưng đến 15h30' ngày hôm sau mới tổ chức khám nghiệm hiện trường. Cơ quan công an đã không tổ chức bảo vệ giữ nguyên hiện trường vụ án; Việc thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án không đảm bảo chặt chẽ theo quy định, như việc đem áo mưa, áo cảnh sát, dép…của nạn nhân Sinh gửi ở phòng bảo vệ Công ty Neu Hope; còn điện thoại di động và khẩu súng K59 + 1 băng đạn còn 1 viên của nạn nhân Nguyễn Văn Sinh thì mang đi đâu không rõ; đến hơn 1h ngày 15/7/2007 mới được lập biên bản thu giữ và đến 17h cùng ngày mới làm thủ tục niêm phong (BL: 517; 535).
Về dấu vết để lại trên áo và thi thể nạn nhân thể hiện nạn nhân không chỉ bị tấn công, tác động tại hiện trường, mà có thể đã bị tấn công, tác động trước đó ở một địa điểm khác nhưng chưa được làm rõ. Cụ thể, Cơ quan điều tra chưa chứng minh được nạn nhân Sinh đã ở đâu, làm gì, tiếp xúc với ai để tạo nên thương tích trên thân thể như Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình sự đã kết luận: "Các vết hằn xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra; ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng thắt lưng hai bên do vật tày gây nên". Trong khi cơ quan điều tra đã kết luận hung khí của nhóm Chưởng là dao, kiếm chứ không có hung khí nào là vật tày. Như vậy, dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân không phù hợp với lời khai và hung khí của các bị án nhưng không được thực nghiệm điều tra làm rõ.
Về biên bản giám định còn thiếu sót, không kết luận vân tay ở cò khẩu súng K59 thu tại hiện trường là của ai. Vậy lấy cơ sở nào kết luận anh Sinh đã bắn?
Hai là, có người lạ bí ẩn xuất hiện tại hiện trường không được làm rõ. Cụ thể, tại bút lục 515, nhân chứng Phạm Hồng Quang (chiến sĩ CAP Đông Hải 2) khai: Ngay sau khi nạn nhân Sinh bị chém, anh Quang nhìn thấy có một người lạ đi cùng Đặng Thái Sơn (chiến sĩ CAP Đông Hải 2) tới chỗ nạn nhân Sinh đang nằm hôn mê tại hiện trường. Nhưng CQĐT không làm rõ người lạ đó là ai và đến với mục đích gì.
Căn cứ vào diễn biến vụ án do chính các cơ quan tiến hành tố tụng kết luận, thì trong suốt quá trình chuẩn bị phạm tội cũng như quá trình phạm tội của nhóm Chưởng, Hoàng, Trung không có sự bàn bạc, phân công vai trò của từng người, không có sự phân công việc chuẩn bị hung khí, không có sự bàn bạc về cách thức sẽ đi cướp. Đặc biệt, không bàn đến việc sẽ giết người để cướp tài sản, nhưng Chưởng bị quy kết vai trò chủ mưu tội giết người.
Trong hồ sơ thể hiện, chứng cứ kết tội Chưởng là chủ mưu và tham gia chém nạn nhân chỉ là chứng cứ gián tiếp, lời khai của các bị cáo có nhiều mâu thuẫn, chưa đủ cơ sở kết luận Chưởng là chủ mưu, nhưng không được làm rõ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào lời khai còn nhiều mâu thuẫn của Vũ Toàn Trung và Nguyễn Thị Lan Phương (tức "Hằng tây", là người yêu của Vũ Toàn Trung) để có thêm căn cứ buộc tội Chưởng (các lời khai của Trung và Phương rất mâu thuẫn với nhau thể hiện tại các BL: 385, 389, 501, 502, 491, 488, 486, 383, 402, 417, 426, 423, 415, 433, 435, 441, 447). Cụ thể, có lúc Trung khai: "Hôm nay tôi mới nói thật". Như vậy vấn đề đặt ra vậy đâu là thật, đâu giả và toàn bộ lời khai được lấy làm căn cứ kết tội Nguyễn Văn Chưởng tham gia giết người của Trung có đáng tin cậy hay không?.
Kết luận điều tra, cáo trạng và các bản án đều khẳng định: Khi phát hiện có người đi xe máy ngược chiều, Chưởng điều khiển xe máy quay lại và chỉ nói một câu "đây rồi" chứ không có câu nào mang ý nghĩa chỉ huy hay ra lệnh cho cả bọn nhảy xuống chém nạn nhân. Khi Chưởng dừng xe chỉ có Hoàng và Trung nhảy xuống chém anh Sinh và một trong những nhát chém của Hoàng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân (Bản giám định pháp y số 33-374/2007 ngày 19/7/2007 của Tổ chức giám định pháp y Hải Phòng kết luận: "Nạn nhân bị một số vết thương tích trên cơ thể, trong đó có 1 vết thương sọ não hở vùng thái dương phải gây choáng chấn thương sọ não nặng không hồi phục quyết định sự chết của nạn nhân).
Khi anh Sinh nổ súng thì Trung và Hoàng chạy lại chỗ Chưởng vẫn đang ngồi đợi trên xe máy và được Chưởng lái xe bỏ chạy.
Các bản khai của nhân chứng Nguyễn Văn Phước (bảo vệ Công ty Hoàng Gia) chứng kiến quá trình anh Sinh bị chém đều khẳng định: Có 3 người đèo nhau trên một xe máy, khi gặp anh Sinh chỉ có 2 người ngồi sau nhảy xuống chém, khi anh Sinh nổ súng thì 2 người đó chạy lại chỗ người cầm lái vẫn đang nổ máy đứng đợi, sau đó cả 3 bỏ chạy. Lời khai của nhân chứng Phước phù hợp với lời khai của Chưởng và Trung là Chưởng chính là người điều khiển xe máy chở Hoàng và Trung (BL: 110; 123; 243; 359…).
Việc nạn nhân Sinh đi dép hay đi giầy khi bị chém cũng chưa được làm rõ. Bởi, nhân chứng Phạm Hồng Quang khai anh Sinh đi dép (BL: 517), nhân chứng Nguyễn Văn Phước cũng khai anh Sinh đi dép (BL: 535), còn nhân chứng Đặng Thái Sơn khai anh Sinh đi giầy màu đen có dây (khai 2 lần: BL 523, 524).
Thứ tư, về vật chứng, còn có nhiều uẩn khúc chưa được cơ quan điều tra làm rõ. Cụ thể như, các vết bầm tím trên người nạn nhân có trong bản ảnh không phù hợp với tang vật vụ án; đôi dép cỡ 42 ở hiện trường không được làm rõ là của ai; hung khí giết người là tang vật vụ án lại không có; hiện trường vụ án có một khẩu trang trắng kẻ xanh được thu giữ làm tang vật, nhưng cơ quan điều tra không làm rõ của ai (BL:698).
Đặc biệt, Chưởng có chứng cứ ngoại phạm, nhưng không được điều tra làm rõ. Cụ thể, nhiều nhân chứng xác nhận thời điểm xảy ra vụ án, Chưởng có mặt ở quê Hải Dương nhưng không được điều tra, đối chất một cách khách quan. Nguyễn Trọng Đoàn (em trai Chưởng) nộp các xác nhận ngoại phạm đó lại bị CQĐT bắt khẩn cấp về tội "Che dấu tội phạm" và bị xử 2 năm tù.
Đặc biệt, Chưởng khai đã cung cấp bản kê các cuộc gọi đi, gọi đến điện thoại của Chưởng (0974.863.087) trong thời điểm xảy ra vụ án (tối 14/7/2007) và đề nghị được xác minh các cuộc điện thoại đó để xác định tọa độ các cuộc gọi, làm rõ Chưởng có mặt hay không có mặt tại Hải Phòng khi xảy ra vụ án nhưng không được cơ quan điều tra thực hiện.
Được biết, trong vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã có kháng nghị, ông có thể cho biết nội dung kháng nghị đó là gì?
- Tôi chỉ xin nêu điểm chính về nhận định của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao là (xin nêu nguyên văn): "Đây là vụ án có đồng phạm, các đối tượng rủ nhau cùng đi thưc hiện hành vi "cướp tài sản". Đối với tội "giết người", không có tài liệu thể hiện các bị cáo bàn bạc trước về việc giết người, không có tài liệu thể hiện việc Nguyễn Văn Chưởng bàn bạc hay chỉ đạo việc chém anh Sinh, vì vậy phải căn cứ vào hành vi cụ thể khi thực hiện tội phạm để đánh giá, xác định vai trò của từng bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở kết luận Nguyễn Văn Chưởng phạm tội giết người với vai trò giúp sức. Mặt khác, quá trình điều tra công khai tại phiên tòa không đầy đủ, chỉ tập trung vào việc xác định các bị cáo có phạm tội hay không mà không đấu tranh làm rõ vai trò của từng bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Chưởng và các bị cáo khác kêu oan, nhưng Hội đồng xét xử không triệu tập bị cáo Vũ Toàn Trung, bị cáo Nguyễn Thị Lan Phương và cũng không triệu tập một nhân chứng nào đến phiên tòa để làm rõ hành vi phạm tội và đánh giá vai trò của từng bị cáo. Do đó, cần tiến hành xét xử phúc thẩm lại nhằm đánh giá đúng vai trò của Nguyễn Văn Chưởng trong vụ án, từ đó quyết định hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo."
Kháng nghị này của Viện Kiểm sát tối cao đã không được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận.
Theo Luật Tố tụng hình sự 2003 thì quyết định Hội đồng Thẩm phán TAND TC là quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, Luật tố tụng hình sự 2015 đã có nhiều sửa đổi, trong đó không có giới hạn cuối cùng, vậy trường hợp như Nguyễn Văn Chưởng có còn cơ hội được xem xét không thưa luật sư?
- Nếu Chủ tịch nước có chỉ đạo tạm dừng thi hành án đối với Nguyễn Văn Chưởng thì đó là cơ hội để Chưởng có thể được xem xét lại bản án. Trình tự thủ tục xem xét sẽ theo quy định mới tại điều 404 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015. Cụ thể, Điều 404 quy định về yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như sau:
Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
1. Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không biết được khi ra quyết định đó, nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó.
2. Trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Trường hợp Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mở phiên họp xem xét kiến nghị đó.
Trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mở phiên họp xem xét đề nghị đó.
Như vậy, khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không biết được khi ra quyết định đó thì Hội đồng phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó, nếu: Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội kiến nghị; - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị; - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị.
Thời gian để xem xét được căn cứ vào Điều 406 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định, sau khi nhận được kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc sau khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao bản sao văn bản kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức thẩm định hồ sơ để báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định tại phiên họp.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc kể từ ngày Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải mở phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị đó và thông báo bằng văn bản cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về thời gian, địa điểm mở phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị.
Xin cảm ơn Luật sư!
Theo hồ sơ vụ án, khoảng 21h ngày 14/7/2007, trên đoạn đường vào nhà máy thép Đình Vũ (An Hải, HP) xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là Thiếu tá CSHS Nguyễn Văn Sinh (CA phường Đông Hải 2, quận Hải An, TP Hải Phòng).
Do vết thương quá nặng, Thiếu tá Sinh đã tử vong vào 8h sáng 15/7/2007 tại bệnh viện.
Rạng sáng 3/8/2007, Cơ quan công an bắt giữ Nguyễn Văn Chưởng (sinh năm 1983, quê quán: thôn Trung Tuyến, xã Bình Dân, Kim Thành, tỉnh Hải Dương), là công nhân Công ty TNHH Đại Phát, Hải Phòng. Chưởng đã có vợ, không tiền án, tiền sự. Chưởng còn là chủ quán Café Thiên Thần ở phường Đông Hải 2, q. Hải An, Hải Phòng. Bị bắt cùng ngày với Chưởng là Đỗ Văn Hoàng và Vũ Toàn Trung. Sau đó, cơ quan điều tra bắt giam Nguyễn Trọng Đoàn (em trai Chưởng) về tội che giấu tội phạm và Nguyễn Thị Lan Phương (tức Hằng Tây) về tội không tố giác tội phạm.
Ngày 12/6/2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm, tuyên phạt Nguyễn Văn Chưởng tử hình tội "Giết người", 4 năm tù tội "Cướp tài sản"; Đỗ Văn Hoàng tù chung than về tội "Giết người", 3 năm tù về tội "Cướp tài sản"; Vũ Toàn Trung 20 năm tù về tội "Giết người", 3 năm tù về tội "Cướp tài sản"; Nguyễn Trọng Đoàn 2 năm tù về tội "Che giấu tội phạm"; Nguyễn Thị Lan Phương 12 tháng tù (cho hưởng án treo) về tội không tố giác tội phạm.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Văn Chưởng, Đỗ Văn Hoàng có đơn kháng cáo kêu oan.
Ngày 21/11/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét xử phúc thẩm, tuyên y án sơ thẩm, bác đơn kháng cáo kêu oan của Nguyễn Văn Chưởng và Đỗ Văn Hoàng.
Chưởng tiếp tục có đơn kêu oan với lý do thời điểm xảy ra vụ án mạng Chưởng không có mặt ở Hải Phòng mà đang ở quê Hải Dương. Bố của Chưởng là ông Nguyễn Trường Chinh nhiều năm làm đơn kêu oan cho con gửi tới các cơ quan cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Ngày 18/4/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 09/KN-VKSTC-V3 đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy phần quyết định của bản án hình sự phúc thẩm đối với Nguyễn Văn Chưởng để xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Ngày 7/12/2011, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và giữ nguyên bản án phúc thẩm.
Từ đó đến nay, Chưởng và gia đình Chưởng vẫn tiếp tục có nhiều đơn kêu oan gửi tới các lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.