Chuyện “nhặt” ở làng cổ xứ Đoài (kỳ III): Yêu làng như yêu... mẹ

Hà Nguyên Huyến Thứ tư, ngày 04/08/2021 06:00 AM (GMT+7)
Tôi đọc tên một số tác giả văn học và một số danh nhân thế giới cho một bà khách người Canada khi bà hỏi về tủ sách trong căn nhà cổ của tôi. Bà ta hết sức ngạc nhiên.
Bình luận 0

Tôi bảo, con tôi là đời thứ mười ở trong ngôi nhà này, chúng cũng đã đọc và thậm chí có tác phẩm chúng đã đọc qua nguyên tác bằng tiếng Anh.

Nói về lịch sử một cách sòng phẳng

Có một đoàn khách Pháp đã đứng tuổi hỏi một tấm ảnh trên tường có phải là bố tôi. Tôi bảo đúng thế. Ông ta lại hỏi: Trên ngực ông ta có cái mề-đay mang ý nghĩa gì? Tôi bảo đó là huy hiệu 50 tuổi đảng của ông. Bố ông có tham gia chiến tranh không? Lúc này chú hướng dẫn du lịch ra hiệu cho tôi là đừng nói đến những vấn đề nhạy cảm. Tôi bảo chú yên tâm, đây là một thực tế lịch sử, chúng ta nên nói về nó một cách sòng phẳng.

Chuyện “nhặt” ở làng cổ xứ Đoài (kỳ III): Yêu làng như yêu... mẹ - Ảnh 1.

Khách du lịch thăm làng Mông Phụ, xã Đường Lâm. Ảnh: N.H

Tôi nói: "Bố tôi là một công chức trong thời thuộc Pháp, sau đó ông theo Việt Minh như rất nhiều người cùng thời với ông đã làm. Ông đã nện Pháp những đòn chí tử ở Điện Biên Phủ. Rồi ông ra quân trở thành một công chức của chính quyền thị xã này". Người Pháp hỏi, tôi bảo bố tôi sống được 80 tuổi. Ông ta nói thế là quá nửa đời người bố tôi đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Ông ấy là người hạnh phúc. Tôi nói hạnh phúc còn tùy thuộc vào cách quan niệm. Người khách Pháp bảo: Bố tôi hạnh phúc vì trước mặt ông chỉ có một con đường. Còn chúng tôi sẽ không được như ông ấy, vì hiện nay trước mắt chúng tôi có nhiều thứ quá. Ông ta nói: "Hiện tôi đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp".

Yêu ngôi làng như yêu một bà mẹ

Chuyện “nhặt” ở làng cổ xứ Đoài (kỳ III): Yêu làng như yêu... mẹ - Ảnh 2.

Nhiều người khách nói, họ không thể giải thích được những cuộc chiến tranh vừa qua, với những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất mà họ lại thua. Nhưng đến đây, đến những ngôi làng của Việt Nam thì họ biết họ thua là đúng. Họ thua những ngôi làng vì mọi người dân đều là lính.

Có một bà Canada hỏi tôi sao trong nhà nhiều sách thế. Tôi bảo sách của nhiều thế hệ dồn lại thành một tủ sách của gia đình. Tôi đọc tên một số tác giả văn học và một số danh nhân thế giới, bà ta hết sức ngạc nhiên. Trước khi đến đây bà ta không nghĩ như vậy. Tôi bảo, con tôi là đời thứ mười ở trong ngôi nhà này, chúng cũng đã đọc và thậm chí có tác phẩm chúng đã đọc qua nguyên tác bằng tiếng Anh. Bà ta không tin, kiểm tra bằng cách nói chuyện với nó. Sau khi trò chuyện bà ta nói với tôi rằng, tiếng Anh của cháu rất tốt. Tôi nói ở Việt Nam hiện nay có những thế hệ học sinh, sinh viên họ học thật. Họ học để ngày mai có việc làm, nhất là những vùng quê như làng tôi và như điều kiện gia đình tôi, không có cơ hội kiếm việc làm cho con. Nếu nó không tự tìm chỗ đứng trong cuộc đời này, chẳng biết cuộc đời có chiều theo ý chúng không?

"Hôm nay, các ngài đến đây, trong một ngôi nhà cổ đã mười thế hệ sinh sống. Một cái làng trù phú mà ở Việt Nam làng nào cũng như vậy bởi, đất nước chúng tôi có một lịch sử nông nghiệp lúa nước kéo dài mấy thế kỷ. Một di sản văn hóa vô giá nếu như còn nguyên vẹn. Nhưng hôm nay, chỉ còn được có thế bởi chiến tranh, bởi những quan niệm ấu trĩ một thời, bởi những lỡ làng của lịch sử… Bởi các ngài còn biết quá ít về chúng tôi". Tôi bảo chú phiên dịch cho một đoàn khách Mỹ: "Chú phải dịch cho tôi một câu nguyên vẹn và tử tế như thế này: "Tôi (chúng tôi) yêu ngôi làng của mình như yêu một bà mẹ, ngay cả khi đau đớn ê chề nhất".

Hình như khách đã hiểu ra phần nào, họ bảo tôi: Họ không thể giải thích được những cuộc chiến tranh vừa qua, với những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất mà họ lại thua. Nhưng đến đây, đến những ngôi làng của Việt Nam thì họ biết họ thua là đúng. Họ thua những ngôi làng vì mọi người dân đều là lính.

Chuyện về tương...

Tôi không còn tự kỷ ám thị như những ngày đầu người nước ngoài đến làng nữa. Lúc ấy tôi nghĩ, có lẽ họ đến làng để thấy những điều cổ hủ, lạc hậu của một vùng quê. Dưới một góc độ nào đó thì mình cũng phải nhịn đi để mà kiếm sống qua cái ngành được mệnh danh là "công nghiệp không khói này".

Vợ chồng tôi làm tương gần hai mươi nhăm năm, đây là một nguồn thu nhập quan trọng của gia đình tôi. Trong thời gian ấy tôi không bao giờ coi khách hàng là "Thượng đế" cả. Tôi đơn giản chỉ mang lại cho khách hàng một mặt hàng. Khách bỏ tiền ra như thế nào họ nhận được ở tôi một điều tương đương.

Họ hỏi tương là thế nào, tôi bảo họ tương là như thế, ăn thì khắc biết. Nhưng cũng phải "đính chính" trước như thế này: Nếu cho các ngài ăn tương cũng ví như các ngài cho chúng tôi ăn pho-mát thối vậy. Thứ pho–mát mốc xanh mốc đỏ được gây men từ dịch vị trong dạ dày của một con ngựa non còn bú sữa mẹ. Nhưng suy cho cùng thì nó rất lành vì không có một thứ hóa chất nào cho vào đấy cả. Làm tương cũng thế, tất cả phải nhờ vào một thứ vi khuẩn hiếu khí, hiếu sáng, hiếu nhiệt độ… để lên men mà thành. Tương trở thành một một thói quen ẩm thực, một nét văn hóa trong ăn uống của người Việt. Ai đã ăn được tương thì cả đời không quên, ai không ăn được thì suốt cả đời không bao giờ dùng đến.

Họ đòi được ăn… tương, thì đành cũng phải chiều họ thôi. Trước khi mang ra cứ ngài ngại thế nào ấy. Có ai ngờ rất nhiều người nước ngoài thích ăn tương. Có người còn dùng nó như một thứ nước sốt để trộn vào các món ăn do vợ tôi làm. Họ ăn nhiều và rất ngon lành. Trò chuyện và ăn uống, trước khi chia tay, họ nói họ đã tìm ra được một điều gì đó trong một ngôi làng cổ. Tôi bảo họ, có lẽ với các ngài đó là một chương trình discovery (khám phá) về Việt Nam. 

(Còn nữa)

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem