Mọi vật liệu làm nhà đều từ thiên nhiên nên lại trở về hòa nhập với đất. Tại vị trí đó người ta có thể xây một ngôi nhà mới hoàn toàn, hoặc chuyển thành vườn, ruộng - nghĩa là không để lại vùng đất ô nhiễm nào cả. Đó chính là một dạng “kiến trúc xanh”.
Ngôi nhà đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay vẫn còn giữ lại được rất nhiều những yếu tố “xanh”.
Ngôi nhà dân tộc Hà Nhì, dân tộc Mường trong sử dụng vật liệu tự nhiên, tái tạo.
Xin giới thiệu những ngôi nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, một dạng kiến trúc xanh Việt Nam.
Đa số nhà ở các dân tộc hiện nay đều sử dụng vật liệu có nguồn gốc hữu
cơ từ tự nhiên. Nhà ở của nhiều dân tộc như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao…, hệ
thống rường cột chính của ngôi nhà đều được lấy từ chính cây tự trồng
trong vườn của họ theo một cách làm rất nhân văn là : sinh con – trồng
cây; con lớn – cây lớn làm nhà cho con.
Nơi cư trú của người H'mông.
Với sự lựa chọn loại cây trồng hợp lý có vòng đời sinh trưởng ngắn - chỉ khoảng 7-10 năm là có thể khai thác làm rường cột nhà. Các vật liệu bao che mái lợp thì chọn những loại cây vòng đời sinh trưởng còn ngắn hơn (2-3 năm) để khai thác. Vì vậy, trên thực tế, sự ảnh hưởng đến phá hoại môi trường của xây dựng ngôi nhà là rất thấp. Với ngôi nhà này, khi bị dỡ bỏ, chuyển đổi thì các vật liệu cấu kiện đều tái sử dụng được và để lại đất sạch.
Đa số ngôi nhà dân tộc nằm giữa đại ngàn rộng thoáng, khai thác nguồn năng lượng tự nhiên: là chiếu sáng bằng ánh sáng tự nhiên qua hệ cửa mở hợp lý, thắp sáng từ các loại dầu thực vật. Việc làm mát trong mùa hè được khai thác tối đa bằng hệ thống cửa đón gió và thoát gió hợp lý, ngôi nhà còn được chống ẩm, mốc, tiệt trùng bằng biện pháp nâng sàn ở lên cao so với mặt đất tạo luồng không khí đối lưu bên dưới.
Vào mùa Đông, hệ thống cửa sập kín kết hợp với làm nóng không khí trong nhà bằng bếp lửa (thường đặt chính giữa nhà) rất hiệu quả và tiết kiệm. Ngoài ra, mỗi ngôi nhà thường có vườn xanh để làm mát tự nhiên cho mùa hè, che chắn gió bão và tạo ấm cho mùa đông. Vườn ao chuồng hợp lý và thích ứng với thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng kinh tế để phục vụ đời sống của người dân.
Hệ thống điện công nghiệp hiện đại đã về các thôn bản nhưng đa số người dân vẫn sống với thói quen cổ truyền, hầu như chỉ sử dụng điện trong những trường hợp bắt buộc như xem tivi, nghe đài. Nếu có một chính sách điện mặt trời, giải quyết tốt bài toán tiết kiệm năng lượng thì ngôi nhà xanh của bà con dân tộc - sử dụng năng lượng tái tạo sẽ khép kín trọn vẹn.
Ngôi nhà dân tộc Tày tràn ngập ánh sáng tự nhiên.
Các dân tộc miền núi phía Bắc xem nguồn nước là một trong ba yếu tố chính để chọn nơi định cư. Do đó, việc sử dụng hợp lý nguồn nước tự nhiên hoặc khai thác tại chỗ trong sinh hoạt hàng ngày đã trở thành một nét đặc sắc.
Do thường phải dùng gùi, ống để lấy nước nên yếu tố tiết kiệm đã trở thành bản năng của người dân tộc. Hình thức tắm suối, rồi suối tự làm sạch cũng là một nét độc đáo trong sử dụng nước tái tạo tuần hoàn.
Một số dân tộc tận dụng sức nước để sinh sống, sản xuất như làm cối giã gạo, guồng quay. Một số nơi lợi dụng địa hình dốc dẫn nước từ sông suối về tận nhà, tận nương để sử dụng như người Pà Thẻn, Mường… Bên cạnh đó, nguồn nước mưa được thu từ mái nhà bằng máng chảy vào các chum vại, sau đó được lắng lọc bằng các lớp cát sỏi tự nhiên để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Những ngôi nhà truyền thống của bà con dân tộc trong thực tế đã tạo ra được một tiện nghi sống khá tốt, gần gũi thân thiện với thiên nhiên. Chính cuộc sống giản dị, đa dạng, linh hoạt không gian đã giữ nét văn hóa Việt truyền thống, là sự gần gũi, ấm áp giao hòa tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.
Về tinh thần, “kiến trúc mở cửa” phóng khoáng với cộng đồng của ngôi nhà dân tộc miền núi thực sự là điều đáng để chúng ta suy ngẫm.
Ngôi nhà truyền thống dân tộc với cách xây dựng, và khai thác vật liệu hoàn toàn tự nhiên nên khung cột dầm, sàn từ gỗ xoan. Xà gồ, vì kèo sườn mái từ tre, gỗ tạp. Mái lợp bằng rơm rạ, mây, cọ. Tường, vách cửa sổ, cửa đi, từ tre nứa. Thông thoáng, chiếu sáng tự nhiên. Xây dựng hoàn toàn thủ công.
Xuất phát từ truyền thống, ngôi nhà của người dân tộc đã coi trọng bậc nhất yếu tố hòa nhập hữu cơ với thiên nhiên. Do đó ngôi nhà thường được đặt một cách khéo léo trên nền đất dốc tự nhiên, không san gạt, được xây dựng thành các khuôn viên với hàng rào mềm gắn kết cộng đồng; hệ thống hạ tầng được bố trí khéo léo bám theo địa hình; những khu vườn, rừng được chăm sóc; ruộng nương được canh tác màu mỡ… Tất cả đã góp phần tôn tạo, gìn giữ sinh thái tự nhiên ở các vùng cư trú của đồng bào, phát triển hài hòa bền vững trong việc xây dựng và phát triển từng khu vực cũng như toàn cộng đồng.
Trong quá trình hội nhập và phát triển bền vững, chúng ta luôn trăn trở và tìm kiếm bản sắc dân tộc. Kiến trúc xanh của ngôi nhà truyền thống đồng bào dân tộc phải chăng chính là một bản sắc cần giữ gìn, phát huy và tiếp biến trong nền kiến trúc Việt Nam!
HP (Nguồn KTSVN) (HP (Nguồn KTSVN))
Vui lòng nhập nội dung bình luận.