1. Từ sự
thật lịch sử - chân dung Nguyễn Ánh
Nguyễn Ánh tức Nguyễn Phước Ánh, còn có tên là Chủng
và Noãn, sinh năm 1762, con thứ ba của Nguyễn Phước Luân. Luân được triều
Nguyễn truy tôn Hưng tổ Hiếu Khang hoàng đế, mẹ Ánh là Hiếu Khang hoàng hậu,
một trong ba người vợ của Luân. Năm 1778, Nguyễn Ánh được các tướng lĩnh Đàng
Trong ở Nam Bộ tôn là Đại Nguyễn soái Nhiếp quốc chính, đến 1780 xưng vương,
trở thành người đứng đầu các lực lượng chống Tây Sơn trên địa bàn phía Nam sông
Gianh.
Trải qua nhiều lần quân tan tướng chết, trốn lánh bôn ba, cầu viện nước
ngoài, thậm chí giao cả con là Phước Cảnh cho Pigneau de Béhaine đưa qua Pháp
cầu viện, năm 1788 Ánh chiếm lại được Gia Định. Năm 1802, Nguyễn Ánh bắt được
Quang Toản, tiêu diệt nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, và trở thành vị vua đầu
triều Nguyễn với niên hiệu là Gia Long.
Kênh Chắc Băng – Cà Mau
Sử quan triều Nguyễn chép: Ánh giỏi dùng súng điểu
thương. Ánh cũng giỏi bơi lội, thạo chèo thuyền. Một số tài liệu nước ngoài còn tả
Nguyễn Ánh lúc đúng tuổi “dáng người cao trung bình, vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhõm”,
“màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi, …”.
2. Những
địa danh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long lưu dấu bước chân Nguyễn Ánh
Tương truyền chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu,
thuyền lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm khuya thanh vắng ngài nghe có
tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ một khúc sông xa
vọng lại. Chúa Nguyễn xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là “Cầm Thi Giang”. Cầm Thi
được đọc trại thành Cần Thơ. Tất nhiên do là giai thoại nên chưa chắc mọi người
đã đồng thuận hoàn toàn với cách giải thích đậm chất dân gian như vậy.
Một lần khác thuyền chúa Nguyễn trong rạch sắp ra đến
ngoài vịnh, bỗng có hai con rái cá lội ngang chặn mũi thuyền lại. Xem thấy có
điều bất thường, Nguyễn Chúa muốn quay lại, nhưng không còn kịp. Quả nhiên gặp
một đội thuyền chiến của Tây Sơn chặn đánh. Đoàn thuỷ binh của Nguyễn Ánh sắp
bại đến nơi, thì may sao trời nổi giông gió dữ dội, làm đắm các chiến thuyền
của Tây Sơn, chúa Nguyễn nhờ đó thoát nạn.
Sau khi lên ngôi, Gia Long hoàng đế đã xuống lệnh
phong cho đàn cá sấu là “Tân Ngạc Ngư Long” và phong cho hai chú rái cá kia là
“Lang lại nhị đại tướng quân”. Dân gian cho rằng địa danh Lại Sơn hay Hòn Sơn
Rái có từ đó. Nay địa danh này là xã đảo của huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.
Thời gian Nguyễn Ánh chạy đến vùng Sa Đéc, Vĩnh Long,
chúa đến ẩn náu tại một vùng đất, mà sau này chúa dùng hai chữ Long Hưng để làm
tên gọi. Cạnh rạch Long Hưng có cội da, Nguyễn vương thường đến đây câu cá. Dân
gian gọi là cây đa Bến Ngự.
Cũng gần vùng đất này có nền đồn của Đức Cao Hoàng
giá ngự, vuông vức 6 công đất, nền đất thuộc Long Hưng, gần vàm Nước Xoáy (Hồi
Oa). Những địa danh này thuộc vùng đất Đồng Tháp, gần giáp giới Vĩnh Long ngày
nay.
Ca dao có câu rằng:
Ngó lên Nước Xoáy ngùi ngùi/ Nhớ ông Cao Tổ vua tôi một lòng
Dân gian kể rằng khi chúa Nguyễn chạy đến vùng đất Mỹ
Xuyên xưa (nay thuộc đất Sóc Trăng), định theo dòng Mỹ Thanh ra biển, đồng bào
Khmer ở đây nấu cơm dâng vua. Cơm chưa kịp chín, quân Tây Sơn đã đuổi tới. Vua
phải tức tốc bôn tẩu. Người nấu cơm vội vàng thốt lên “bay xao”, “bay xao”, âm
tiếng Khmer nghĩa là “cơm sống”. Địa danh Bãi Xào gọi trại ra là vì thế.
Cũng
tại cửa sông Mỹ Thanh, một đồn binh được thiết lập khi chúa Nguyễn Ánh lánh nạn
ở Cồn Đầm. Đồn binh này ngày nay không còn, nhưng còn câu chuyện, lúc đến đây,
một vị công nương của chúa không chịu thấu nỗi gian lao và cũng đã từ giã cõi
đời. Hài cốt vị công nương ấy được vùi chôn tại làng Tân Khánh. Tây Sơn lại tấn
công, chúa Nguyễn phải bôn đào, việc trông nom ngôi mộ của vị công nương ấy
được giao lại cho một người Hoa tên Yết. Về sau, Gia Long ban cho chú Yết rất
trọng hậu, phong chức tri phủ, lại cho được quyền thu hoa lợi tất cả các cơ sở
đánh cá dọc Nam Hải, giữa khoảng vàm Mỹ Thanh và cửa Hoành Tẩu, địa danh Phủ
Yết được đặt như để đánh dấu một thời, …
Khi Nguyễn vương tránh quân Tây Sơn tại Cái Rắn (Bạc
Liêu), thì việc khó khăn nhất là nước uống, bởi khắp xóm này không có chỗ nào cung
cấp nước ngọt thường xuyên ngoài giọt mưa trời. Lúc ấy, tháng hạn, nước ngọt
cạn kiệt. Không thể làm khác hơn, Nguyễn vương cho quân đặt bàn hương án giữa
trời khấn vái. Xong việc, vua cho đào ngay giếng tại nơi đó. Khi giếng đào
xong, nước múc lên nếm thử thì thấy ngọt. Giếng ấy ở xóm Cái Rắn, Tân Hưng (nay
thuộc thị xã Bạc Liêu), vẫn còn sau hơn 200 năm tồn tại. Dân gian trong vùng
gọi là Ao Ngự.
Cũng thời gian này, từ rạch Cái Rắn, quân Nguyễn
vương đi lần tới biển, qua rạch Rau Dừa rồi tới rạch Cái Nước để vào vịnh Thái
Lan. Trong cuộc hành trình, nhà vua và đám tuỳ tùng dừng chân tại một nơi thuộc
hữu ngạn sông Bảy Háp, chỗ vàm Cái Nước đổ ra. Dân chúng trong vùng có đến yết
kiến, từ đó nơi này được gọi là vùng Ngài Ngự, sau đổi là Giá (xe vua) Ngự cho
đến ngày nay. Dân gian còn dùng từ Long Ẩn (vua trốn) để đặt tên cho một con
kinh khác ở Cái Rắn.
Một góc hòn Lại Sơn (Kiên Hải – Kiên Giang)Tại vùng rừng Năm Căn, những năm đầu thế kỷ XX, người
trong vùng tình cờ phát hiện được chiếc thuyền mà họ gọi là thuyền Ngự (thuyền
của vua) với nhiều vật dụng có giá trị. Động lòng tham nhiều kẻ lấy cắp mang về
nhà. Nhưng rồi sau đó, những kẻ sở hữu “đồ vua” không bệnh tật thì cũng gặp nạn
nọ nạn kia, sợ hãi họ mang đến chỗ cũ hoàn lại.
Người già còn truyền khẩu rằng
những ngày lành tháng tốt, nửa đêm gà gáy, người trong vùng còn nghe tiếng quân
sĩ hò reo như đang ở sa trường máu lửa, … Màu sắc huyền hoặc ấy, ngày nay không
khó để lý giải. Có điều dấu tích chiếc thuyền ngự nay đã bị phù sa bồi đắp,
đước vẹt mọc xanh tốt như bao nơi khác của cánh rừng U Minh hạ bạt ngàn.
Năm 1783, khi bị Tây Sơn truy nã ráo riết, Nguyễn Ánh
đến vùng U Minh. Trong đoàn tuỳ tùng có công chúa Ngọc Hạnh. Rừng thiêng nước
độc, công chúa nhuốm bệnh thương hàn và bỏ mình tại đây. Thương con, Nguyễn
vương cho dựng một đền thờ cạnh mộ, dân gian quen gọi là Cạnh Đền. Địa danh này
thuộc Ninh Thạnh Lợi (Bạc Liêu).
Một góc rừng Cà Mau – gần địa danh Cạnh Đền
Một lần thuyền chúa đang ở
giữa dòng kinh mà lúc đó chưa có tên gọi. Nguyễn Ánh ốm nặng, sợ không qua
khỏi, nhà vua trăn trối với ba quân rằng:
- Cơn bệnh ngặt
nghèo của trẫm lương y không chữa hết. Chắc trẫm phải băng rồi. Thương cho việc
phục quốc không thành! Đáng buồn thay!
Nhưng sau đó, vua được các lương y hết lòng cứu chữa
nên qua khỏi. Dân gian truyền lại câu chuyện vừa kể và nhắc lại lời vua ngày
ấy: Trẫm chắc băng! Cuối cùng Chắc Băng
đã trở thành một địa danh ở Vĩnh Thuận, Kiên Giang (ngày nay)
Vị chúa ấy, có lúc phải cùng đoàn tuỳ tùng đi qua
vùng Long An, phải nhờ ông Hóng giúp đỡ. Ông Hóng là một cự phú ở vùng Vàm Cỏ
Tây ngày nay. Khi ấy, đoàn thuyền chở chúa đến đây, thì hết lương phải dừng
lại, Nguyễn Ánh sai thị thần đến làng Bình Lãng, Tân An xin ông Hóng “bữa
cháo”! Ông Hóng cho gia nhân đào con kênh nhỏ từ nhà thông ra sông Vàm Cỏ để
chở lúa ra sông … tiếp tế. Con kênh ấy gọi là kênh “ông Hóng”, có kênh dẫn
nước, cư dân thời bấy giờ nuôi vô số vịt con, và thế là sự kiện ấy dần dần hoá
thân vào lời ca dân gian, …
Theo dòng giai thoại, chúng ta còn gặp được trong dân
gian vùng đất Bến Tre (Kiến Hoà xưa) giai thoại về hai cô gái bán lụa giúp
thuyền Nguyễn Ánh vượt qua nguy kịch. Tương truyền, trong lúc thuyền chúa đang
lênh đênh giữa dòng sông rộng thì thình lình giông gió nổi lên, mây đen kịt kéo
phủ đầy trời.
Sông Hậu chảy qua Cần Thơ
Mọi người ra sức chèo chống, chẳng may dây cột buồm
và dây cột bánh lái đứt ra. Thuyền ngừng hẳn, mặc cho sóng nhồi, gió tạt, quan
quân sợ hãi làm rớt cái chiên lệnh xuống dòng sông. Từ đó, dân gian gọi sông
này có tên là Cổ Chiên, để ghi nhớ ngày Gia Long tẩu quốc (?). Chống chèo không
được nữa, nhà vua cùng tuỳ tùng ngửa mặt lên trời cầu nguyện trong tuyệt vọng.
Bỗng đâu, từ xa vang lên câu hò:
Bớ chiếc
ghe sau chèo mau em đợi/ Kẻo
giông khơi đèn mờ mịt hiểm nguy
Quan quân trông vọng vào nơi đó. Một chiếc ghe nan
lướt sóng chèo đến thuyền vua. Tới nơi, họ ngơi tay chèo, nghe kể rõ tình thế,
các cô vội vàng lấy ra nhiều cuộn tơ bông trăng quăng sang. Thì ra, hai thiếu
nữ này là người buôn tơ sợi, nhân dịp mua tơ về, gặp thuyền chúa nguy nan nên
giúp đỡ.
Sau khi lên ngôi, Gia Long cho người tìm đến hai
người con gái năm xưa để đền đáp công lao cứu tử. Nhưng họ đã lìa đời, nhà vua
ban sắc phong và truyền lập miếu thờ tại làng Đa Phước Hội. Miếu Hai Bà hay chùa Hai Bà
đến nay vẫn còn.
Đoạn sông gần Vàm Mỹ Thanh – Sóc Trăng.
Những truyền thuyết loại này không những nhiều mà vẫn còn
lưu truyền ở hầu khắp các tỉnh Tây Nam Bộ. Thực hư chưa thể thẩm
định, nhưng nó đã góp phần quan trọng cho những tiểu thuyết dã sử trên văn đàn
Sài Gòn đầu thế kỷ XX, với đề tài Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc luôn hấp dẫn người thưởng thức xa gần, bởi hàm ý
chống lại chính quyền thực dân đương thời của nó. Sự ảnh hưởng giữa giai thoại
dân gian và văn học quốc ngữ về vấn đề Gia Long là một hiện tượng lý thú cần
được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, lý giải sâu sắc hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1988.
2. Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại, tập 2; tập 8, Nxb Giáo dục, H. 2001.
3. Cao Tự Thanh, Lịch sử Gia Định, Sài Gòn trước 1802, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2007.
4. Tài liệu sưu tầm điền dã dân gian ở Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Sóc Trăng.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.