Ông Bùi Hữu Nghĩa sinh năm 1807 và mất năm 1872, sinh ở thôn Long Tuyền, tổng Định Thới, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc xã Long Tuyền, huyện Ô Môn, tỉnh Hậu Giang). Ông có thời gian lên Biên Hoà trọ tại nhà ông Nguyễn Văn Lý, thọ giáo thầy Nguyễn Phạm Hàm mà người dân địa phương quen gọi là cụ đồ Hoành. Năm 1835, ông Bùi Hữu Nghĩa thi đỗ đạt tại Gia Định được bổ làm tri huyện Phước Long và cưới bà Nguyễn Thị Tồn.
Tượng Bùi Hữu Nghĩa trong Bảo tàng thành phố Cần Thơ (ảnh mang tính minh họa cho bài viết, Nguonf: Internet)
Khi ông Bùi Hữu Nghĩa làm tri huyện Trà Vang (Trà Vinh năm 1848), vì cương trực bị quan trên ghen ghét. Nhân sự kiện ở rạch Láng Thé, bọn quan trên ghép tội ông Bùi Hữu Nghĩa xúi giục, bắt giam rồi giải ông về Gia Định chờ xử tử. Bà Tồn thấy chồng bị oan ức liền từ Trà Vang lên Mỹ Tho rồi quá giang ghe bầu ra Huế để kêu oan cho chồng. Tại kinh thành Huế, bà gặp được Thượng thư Bộ Lại Phan Thanh Giản để bày tỏ nỗi oan của chồng và được giúp đỡ. Vị minh quan viết tờ trạng và chỉ vẻ cho bà cách trình tấu nơi công đường.
Canh năm, bà Nguyễn Thị Tồn tới Tam pháp ty mạnh dạn đánh ba hồi trống làm kinh động nơi Tam cung lục viện. Vua Tự Đức cho đòi người đánh trống vào chầu. Trước mặt vua và quan triều đình, bà biện bạch nỗi oan khiên của chồng đang gánh chịu. Vua Tự Đức nghe xong, giao cho Bộ Hình xem xét. Sau khi thẩm định minh bạch, nhà vua chung thẩm bản án: ”tha cho ông Bùi Hữu Nghĩa khỏi tội tử hình nhưng phải quân tiền hiệu lực, đoái công chuộc tội”.
Sau đó, bà Nguyễn Thị Tồn được vua Tự Đức ban Võng điều có bốn lọng, nơi đầu võng có gông nhỏ sơn son, ngầm ý khen bà là người trung trinh, gan dạ song cũng thầm trách bà đã làm kinh động đế đô. Hoàng thái hậu Từ Dũ nghe tin, cho bà vào gặp mặt. Cảm kích trước một người phụ nữ dân dã từ xứ Đồng Nai không từ nan vạn dặm lặn lội đến chốn kinh thành minh oan cho chồng, Thái hậu đã ban tặng bà Tồn tấm biển chạm 4 chữ vàng Tiết phụ khả gia.
Khi bà Nguyễn Thị Tồn về đến quê thì chồng là Bùi Hữu Nghĩa khâm mệnh đi trấn đồn Vĩnh Thông (thuộc Châu Đốc – An Giang).
Đền thờ và mộ Bùi Hữu Nghĩa sau lần trùng tu năm 1987 (ảnh mang tính minh họa cho bài viết, Nguồn: Internet)
Tại Biên Hoà, bà Tồn lâm trọng bệnh qua đời. Ông Bùi Hữu Nghĩa vì xa xôi cách trở không về lo đám tang được cho người vợ. Những mất mát chốn quan trường không làm ông Bùi Hữu Nghĩa than vãn nhưng ông đau đớn tột cùng trước sự ra đi của người vợ hiền, vì ông mà lao tâm khổ tứ. Ông Bùi Hữu Nghĩa đã viết câu đối bằng chữ Hán để khóc vợ với nỗi niềm sâu sắc, cảm động:
"Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ
Khanh bệnh, ngã bất dược; khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu"
(Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ.
Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng…).
Nhắc đến hành động của vợ đánh trống kêu oan nơi kinh thành, Ông Bùi Hữu Nghĩa tỏ lòng mến phục bằng câu đối Nôm khác:
“… Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng.
Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ băng đăng tai nghe đà khiếp vía”.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.