Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Tại tọa đàm "Từ bản lĩnh đến bản sắc" được tổ chức trong khuôn khổ Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 22, khi bàn về bản sắc của nhà thơ, nhà thơ Nguyễn Thanh Kim bày tỏ rằng: "Trong cuộc đời người làm thơ, cái làm nên sự nghiệp của anh ta, cái mà anh ta suốt đời trăn trở, tìm tòi, cái mà luôn luôn thôi thúc, kêu gọi ở phía trước đầy sức khêu gợi cuốn hút; cái mà vừa bồi đắp nên đời sống tâm hồn trong sự vô tận của dòng đời; cái mà hiện diện khuôn mặt thơ không lẫn với bất cứ ai nhưng lại đồng điệu với nhịp rung của bao tâm hồn khác trong sự cảm thông lớn; cái vừa là sự dằn vặt đau khổ của người viết nhưng lại là niềm vui sướng trong sự tái tạo của bản thân người sáng tạo, in đậm dấu vết cá thể hóa hiệp thực được phản ánh đó là bản sắc thơ, hoặc ở mức độ cao hơn là người viết tạo ra một vũ trụ thơ".
Theo tác giả "Thế giới của những giấc mơ", sự hoàn thiện bản sắc thơ của các nhà thơ lớp trước đáng để cho chúng ta cần phải suy nghĩ. Một Tố Hữu băn khoăn đi tìm chân lý, suốt đời vì lý tưởng cộng sản, con người hành động gắn liền với thơ khăng khít hữu cơ; một Xuân Diệu - thi sĩ của mê đắm tình ái; một Huy Cận với cảm quan vũ trụ; một Chế Lan Viên day trở về thân phận dân tộc và trên nữa là thi hào Nguyễn Du với nỗi cảm thông lớn đối với mọi kiếp người trong xã hội phong kiến, nhất là đối với thân phận người phụ nữ...
"Thái độ và sự quan tâm đến hiện thực đến trở thành ám ảnh, kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn với một giọng điệu riêng không thể lẫn được đã tạo được một vệt sáng chính yếu trong đời sống tinh thần của người viết, tạo nên một bản sắc thơ rõ rệt. Nó xâu chuỗi các tác phẩm của nhà thơ làm nên bộ mặt tinh thần của tác giả, đóng góp cho nền thơ chung của dân tộc thêm phong phú, đa dạng", nhà thơ Nguyễn Thanh Kim nêu quan điểm.
Nhà phê bình văn học Hoàng Kim Ngọc cho rằng, bản sắc nhà thơ được hiểu là tài năng thơ được kết tinh, có khả năng hấp thụ văn hóa nhân loại để biến thành năng lượng sáng tạo. Đó là nhà thơ phải có giọng điệu, có phong cách tác giả, có "vân chữ" riêng biệt để không nhòe lẫn với ai. Bản sắc là cái sống còn của người cầm bút. Nó gắn liền với việc kiến tạo diễn ngôn độc đáo, khác lạ nhưng có giá trị để làm nên tên tuổi nhà thơ.
"Nhà thơ có bản sắc sẽ được độc giả mến yêu trân trọng và được các nhà nghiên cứu phê bình định vị bằng một cụm từ có tính khái quát sự nghiệp thơ của họ. Mỗi nhà phê bình khi định danh một bản sắc, một gương mặt nghệ sĩ nào đó thì về cơ bản đã làm toát lên được sự độc đáo quan trọng nhất đủ để nhận diện khuôn mặt ấy trong vô vàn các gương mặt khác của đời sống văn học. Hoài Thanh và Hoài Chân đã phải đọc hàng nghìn bài thơ của hàng trăm tập thơ và nhiều bài in rải rác trên báo thì mới có thể nhận diện được 46 gương mặt thơ. Thơ có bản sắc là thơ có thể đại diện được cho mỗi tộc người, mỗi dân tộc, cho đặc trưng của mỗi vùng miền, mỗi quốc gia khác nhau", nhà thơ Hoàng Kim Ngọc nói thêm.
Theo phê bình văn học Hoàng Kim Ngọc, lúc sinh thời, nhà thơ Trần Quang Quý luôn quan tâm đến vấn đề giọng điệu. Ông lo lắng băn khoăn: "Đâu chiếc lưỡi của tôi có lạc vào ảo ảnh/Trong cơn mơ có lạc giọng mình". Hình ảnh chiếc lưỡi xuất hiện nhiều trong thơ Việt đương đại còn là biểu tượng cho tiếng nói, nhân cách, trách nhiệm của nhà thơ.
Một số nhà nghiên cứu có thể định vị được phong cách tác giả bằng những cụm từ tạm đủ để nhận diện bản sắc thơ của họ như: Hoàng Cầm – gã phù du Kinh Bắc, Nguyễn Bính- nhà thơ chân quê với giọng điệu dân gian, Đoàn Văn Cừ - nhà thơ của màu quê, Tố Hữu – nhà thơ trữ tình chính trị, Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình, Thanh Thảo – ông vua trường ca, Phạm Tiến Duật – con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại, Y Phương – nhà thơ của đá núi, Inrasara – tháp Chàm giữa nắng đơn ca (hay người tái hiện giấc mơ Chăm), Nguyễn Quang Thiều – nhà thơ của những cách tân gây chấn động, Nguyễn Phúc Lộc Thành – nhà thơ lục bát sex- thiền với đề tài mang thiên tính nữ….
Nhà phê bình văn học Hoàng Kim Ngọc cho rằng, bản sắc trong thơ không bao giờ là một giá trị mang tính cố định và bất biến mà có sự chuyển động. Nhưng đó là sự chuyển động trên nền tảng của sự thống nhất. Nhiều nhà thơ sau khi đã thử nghiệm nhiều trường phái thơ ca, nhiều nhánh giọng để cuối cùng tìm ra một giọng chủ âm của chính mình và kết thúc với phong cách thơ giản dị hơn mang đậm căn tính Việt
Bản sắc của nhà thơ còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố. Đó là yếu tố địa văn hóa, môi trường sống và làm việc; đó là cách nghĩ cách cảm, cách tư duy, cách diễn đạt đặc trưng của tộc người; đó là trường từ vựng, đề tài, cách kiến tạo diễn ngôn, biểu tượng thơ… đủ để đại diện cho quê hương xứ sở, dân tộc, vùng miền, cá tính thơ. Mỗi nhà thơ bao quát một vùng hiện thực, một số chủ đề, đề tài, thể loại thơ hoặc một miền từ ngữ khác nhau. Tần số sử dụng một trường từ vựng nào đó cũng sẽ góp phần nhận diện phong cách tác giả.
"Muốn tạo dựng bản sắc thơ thì nhà thơ phải có phong cách. Phong cách chính là cái tạng thơ của mỗi nhà thơ. Có người có sở trường với thơ lục bát, có người hợp thơ tự do; có người viết thơ ngắn hay hơn trường ca và ngược lại; có người hợp viết thơ tình, người hợp tạng thơ thế sự…".
Nhà phê bình văn học Hoàng Kim Ngọc phân tích, cũng có sở trường với thơ lục bát nhưng lục bát Đồng Đức Bốn khác lục bát của Nguyễn Duy, của Trần Lê Khánh, của Đặng Vương Hưng, của Nguyễn Phúc Lộc Thành… Bản sắc nhà thơ có sự thống nhất với bản sắc dân tộc, quốc gia, với từng giai đoạn thơ… nhưng không đồng nhất. Trong mẫu số chung vẫn có những cái riêng. Chẳng hạn, cùng là hai nữ sĩ tài năng của văn học trung đại (giai đoạn cuối TK XVIII đến hết nửa đầu thế kỉ XIX) nhưng Bà Huyện Thanh Quan ưa dùng từ Hán Việt nên giọng thơ bà thuộc bè trầm, còn Hồ Xuân Hương ưa dùng từ Nôm với đặc sản từ láy động từ, tính từ mạnh nên giọng thơ bà thuộc bè cao. Cùng nằm trong "dàn đồng ca" thơ chống Mỹ với chung một kiểu nghĩ, một trường thẩm mỹ nhưng các nhà thơ Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo, Hoàng Nhuận Cầm, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Ngọc Cảnh, Trần Đăng Khoa, Lưu Quang Vũ…. được phân biệt là qua giọng điệu khác nhau.
Cùng có bản sắc vùng cao nhưng nhà thơ của mỗi dân tộc lại có một phong cách riêng. Nói đến bản sắc Tày, người ta nhớ đến Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn... Nói đến dân tộc Dáy, ta nhớ ngay đến Lò Ngân Sủn. Nói đến dân tộc Pa Dí ta nhớ ngay đến Pờ Sảo Mìn đã đóng đinh ấn tượng với bài "Cây hai nghìn lá". Nói đến bản sắc Chăm, độc giả nhớ ngay đến Inrasara với các biểu tượng tháp Chàm, vũ nữ Apsara, trống ba nưng, xương rồng trên cát, sông Lu…
Tuy nhiên, cùng là Thái nhưng bản sắc Thái trong thơ Lò Cao Nhum khác với Cầm Biêu. Cùng là Mường nhưng bản sắc Mường trong thơ Bùi Tuyết Mai khác với Phạm Tiến Triều… Cùng là bản sắc Tày nhưng với Dương Thuấn là Tày - Bắc Kạn (gắn với những địa danh như Bản Hon, sông Năng…), còn thơ Y Phương lại mang bản sắc Tày - Cao Bằng (được hiện ra với những địa danh như làng Hiếu Lễ, đèo Khau Liêu, đèo Mã Phục, rừng Phjia Bjooc, suối S'lao… với biểu tượng văn hóa như "cây đàn tính dây trong dây đục", với "cơm lam mấy khúc"…).
Bản sắc miền Trung được phản ánh rõ trong thơ của Thạch Quỳ, Hoàng Trần Cương, Nguyễn Trọng Tạo… cùng tả cái nghèo của người dân xứ Nghệ nhưng Thạch Quỳ trong bài "Cái nghèo" viết khác Hoàng Trần Cương trong bài "Miền Trung". Yếu tố địa văn hóa với khí hậu nắng mưa khắc nghiệt của miền Trung đã ám ảnh Hoàng Trần Cương khiến cho không một nhà thơ nào ở Việt Nam viết về nắng và mưa nhiều và ấn tượng độc đáo như ông.
Thơ Hoài Vũ lại mang bản sắc Nam Bộ, bởi môi trường sống của ông lúc "tay súng" khi "tay bút" đều gắn bó máu thịt với miền Nam. Trong thơ ông, các địa danh của miền Nam dày đặc, chỉ khảo sát riêng tập thơ "Thì thầm với dòng sông" (Nxb. Hội Nhà văn, 2023), tôi đã thống kê được 178 lần Hoài Vũ nhắc đến các địa danh bao gồm tên tỉnh, thành, tên huyện, tên xã; tên sông, tên biển, tên kinh, tên rạch, tên cầu, tên chợ, tên bến, tên vàm… với những biểu tượng văn hóa Nam Bộ như: cầu tre lắt lẻo, cánh rừng tràm thơm ngát, đầm sen Tháp Mười mênh mông, lục bình tím trôi, kinh rạch dập dềnh tôm cá, những mái nhà nép dưới rặng dừa, gạo Nàng Thơm, cá bống kèo, điệu lý thương nhau… Chính vì gắn bó sâu sắc với những địa danh, biểu tượng sinh thái đặc biệt của Nam Bộ mà tên tuổi Hoài Vũ trở nên nổi tiếng. Nhớ đến ông là chúng ta nhớ tới những bài thơ được phổ nhạc: Vàm Cỏ Đông, Đi trong hương tràm...
Cũng có thể nói thêm rằng, chỉ khi nào những địa danh được trữ tình hóa, nghệ thuật hóa để trở thành địa chỉ của nội cảm, của nỗi nhớ; trở thành địa danh tâm hồn theo cơ chế chuyển hóa từ khách quan đến chủ quan thì lúc đó nó mới trở thành biểu tượng ghim vào trí nhớ người đọc. Chẳng hạn, địa chỉ của mỗi dòng sông sẽ gắn bản quyền cho mỗi nhà thơ: sông Đuống gắn với Hoàng Cầm, sông Đáy gắn với Nguyễn Quang Thiều, sông Vàm Cỏ gắn với Hoài Vũ, sông Lam như dải lụa của "miền Trung mỏng và sắc như cật nứa" là của Hoàng Trần Cương, dòng Hương Giang với cái nhìn "dìu dịu" là của Nguyễn Khoa Điềm, sông Thương là của Nguyễn Phúc Lộc Thành (dù không phải quê hương)…
Cùng là biểu tượng trăng nhưng trăng trong thơ Xuân Diệu khác trăng Hàn Mặc Tử; cũng là biểu tượng mây nhưng làn mây tự do trong thơ Quang Dũng khác đám mây tâm linh của Nguyễn Quang Thiều. Biểu tượng tình yêu, tính dục của mỗi nhà thơ cũng khác nhau: yếm trong thơ Hoàng Cầm, tóc trong thơ Trần Hùng, sen trong thơ Hồng Thanh Quang… Cùng một đối tượng miêu tả là cái móng chân đàn bà nhưng trong thơ Nguyễn Quang Thiều là cái "móng chân dài và đen, tõe ra như móng chân gà mái" của những người đàn bà nông dân lam lũ; còn trong thơ Mai Văn Phấn lại là cái "móng chân sơn đậm màu trà" của thiếu phụ thị thành nhàn tản…
Cùng nói về màu sắc nhưng mỗi tác giả lại thiên về một màu khác nhau, người ưa màu nóng, người thích màu lạnh. Thơ Hữu Thỉnh thích màu tím; Xuân Quỳnh ưa màu xanh dương tính, vui vẻ lạc quan; Dương Kiều Minh lại thích màu xanh âm tính buồn nhưng trong cảm quan thẩm mỹ của ông thì càng lạnh càng đẹp, càng buồn càng đẹp. Màu trắng trong thơ Lê Đạt luôn gợi dẫn đến sự trắng trong và hình hài trắng đẹp của thiếu nữ; màu trắng trong thơ của Trần Hùng thường là màu trắng siêu thực hoặc đa nghĩa, "trắng" có thể là màu trắng cũng có thể là không có gì, là khôi nguyên, trinh trắng…
"Tóm lại, từ bản lĩnh đến bản sắc nhà thơ là một quá trình lao động chữ nghĩa bền bỉ để tạo cho mình một giọng điệu riêng, vân chữ riêng, biểu tượng riêng, cấu trúc diễn ngôn riêng có giá trị độc đáo và để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc yêu thơ", nhà phê bình văn học Hoàng Kim Ngọc nhấn mạnh.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.