Đưa công nghệ vào sản xuất
Năm 2016, lưới điện quốc gia đã kéo ra tới ấp Thiềng Liềng, thuộc xã đảo Thạnh An. Tận dụng lưới điện, ông Nguyễn Ngọc Thơ là người đầu tiên mạnh dạn đầu tư mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn ấp.
Cũng như nhiều hộ khác ở ấp đảo xa xôi, gia đình ông Thơ trước đó cũng phải sống chật vật bằng nghề làm muối truyền thống. Được sự vận động của Hội nông dân xã, ông đầu tư 2 ao nuôi với tổng diện tích 7.000m2. Đến nay, mỗi năm ông thu hoạch khoảng 7,5 tấn tôm; lợi nhuận bình quân 250 – 300 triệu đồng/năm.
Mô hình nuôi tôm VietGAP siêu thâm canh 2 giai đoạn trong nhà kính ở Cần Giờ. Nguyên Vỹ
Ông Thơ cho biết sẽ không mở rộng diện tích nhưng tiếp tục đầu tư vào máy móc và công nghệ mới: “Sau khi tôi đầu tư thêm máy hơi thổi khí tạo oxy, máy hút chất thải đáy ao, môi trường nước được làm sạch khiến tôm khỏe, ít bệnh hơn và năng suất cao hơn”.
Ngoài ra, ông Thơ còn đầu tư mô hình sản xuất muối với diện tích 3ha trên ruộng trải bạt. Với sản lượng thu được 300 – 350 tấn/năm, thu nhập bình quân của gia đình ông Thơ có thêm 100 – 150 triệu đồng.
“Tổng thu nhập 300 – 400 triệu đồng/năm là con số không nhỏ ở ấp đảo này. Bản thân tôi cũng đang tích cực vận động bà con chuyển đổi mô hình, ứng dụng công nghệ vào nuôi trồng để phát triển kinh tế địa phương”- ông Thơ tâm sự.
Tại xã Bình Khánh, ông Hồ Văn Dũng cũng là một nông dân tiêu biểu khi tiên phong nuôi tôm 2 giai đoạn trên nền ao phủ bạt nhựa. Theo ông Dũng, nuôi tôm phủ bạt tốn chi phí đầu tư gấp nhiều lần nhưng hiệu quả hơn hẳn so nuôi tôm ao đất.
Trên nền phủ bạt, tôm lớn nhanh và cho thu hoạch từ 5 – 6 vụ/năm so với ao đất chỉ 2 – 3 vụ. Việc thay nước và xử lý ao nuôi cũng đơn giản hơn để kiểm soát dịch bệnh. Với diện tích ao nuôi 1.300m2 hiện tại, ông Dũng thu lợi từ 1 – 1,2 tỷ đồng/năm.
Theo ông Hồ Ngọc Thiện - Chủ tịch xã Bình Khánh, nuôi tôm 2 giai đoạn trên nền ao phủ bạt là mô hình mới mà bà con nông dân trên địa bàn xã vừa tiếp cận. Bước đầu toàn xã có khoảng 10ha chuyển đổi theo mô hình mới nhưng đã cho thấy hiệu quả tốt vì hạn chế được nhiều rủi ro.
Nhân rộng mô hình hiệu quả
Trên toàn huyện, phong trào nuôi tôm bằng ứng dụng công nghệ đã phát triển khá nhanh thời gian gần đây. Hiện Cần Giờ có khoảng 5 hộ nuôi tôm hữu cơ (năng suất bình quân 3,15 tấn/ha); 29 hộ nuôi tôm 2 giai đoạn (năng suất 10,21 tấn/ha); 2 hộ nuôi tôm 3 giai đoạn (năng suất 4,67 tấn/ha); 3 hộ nuôi tôm mật độ cao (năng suất 10,1 tấn/ha)…
Hầu hết các hộ nuôi tôm theo mô hình công nghệ mới đều có lãi. Trong đó mô hình nuôi tôm VietGAP đạt mức lãi cao nhất 733 triệu đồng/ha; mô hình nuôi tôm sú Moana đạt mức lãi thấp nhất 121 triệu đồng/ha.
Chuyển đổi từ nuôi tôm thẻ chân trắng trên đất phèn sang nuôi siêu thâm canh 2 – 3 giai đoạn trong nhà kính, anh Nguyễn Hoài Nam (ngụ xã Tam Thôn Hiệp) cho biết mô hình này có thể nuôi mật độ cao từ 200 – 350 con/m2. Tôm sau 90 – 105 ngày nuôi có thể thu hoạch đạt kích cỡ 30 – 40 con/kg, năng suất đạt khoảng 60 tấn/ha. Mức năng suất này tương đương các tỉnh Tây Nam Bộ.
Anh Nam tin tưởng nuôi tôm bằng công nghệ cao ở Cần Giờ sẽ cho hiệu quả không thua gì các tỉnh thành khác. Tuy nhiên, các cơ sở nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện đa số quy mô hộ gia đình, chăn nuôi nhỏ lẻ, hoạt động không thường xuyên. Việc liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị chưa được thực hiện phổ biến trên địa bàn huyện.
“Việc đẩy mạnh nuôi bằng công nghệ sẽ góp phần không nhỏ thay đổi bộ mặt kinh tế tại địa phương. Nhưng đầu tư công nghệ cho sản xuất tốn nhiều chi phí trong khi vốn hỗ trợ từ chính sách giải ngân khá chậm. Khó khăn lớn nhất của người nuôi hiện nay vẫn là nguồn vốn” - anh Nam nói.
Ông Lê Minh Dũng - Chủ tịch UBND huyện Cần Giờ thừa nhận tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất ở địa phương này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các hoạt động xây dựng NTM chưa tập trung nhiều đến hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập. Các mô hình sản xuất kiểu mới kết hợp với kỹ thuật nuôi thủy sản tiên tiến sẽ giúp kiểm soát bệnh, hạ giá thành, đảm bảo được lợi nhuận cho người sản xuất... Hiện Cần Giờ chưa có nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ được triển khai nhân rộng để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.