Một người bản địa rất tự hào nói với tôi rằng, Tam Đảo chẳng những có bốn mùa trong một ngày, sáng Xuân, trưa Hạ, chiều Thu, đêm Đông, mà còn có bốn mùa trong một giờ. Người bạn nối khố Châu Kim và tôi đi lân la qua chợ, qua các dãy phố, lội suối thăm thác Bạc, trèo non lễ đền Mẫu, đền Bà Chúa Thượng Ngàn, trèo đến cả tháp truyền hình cao nhất nơi này... để chiêm ngưỡng.
Nói chung cũng tự nhận là mình đã nhận được sự tiếp đón khá chu đáo từ tình người, đến cảnh vật nơi chốn nước non nổi tiếng lần đầu đặt chân. Ngồi uống bia bên ngã ba cạnh suối Bạc, tôi nhìn khắp xung quanh toàn những giàn su su. Su su trên sườn núi, su su dưới khe sâu, su su trong vườn biệt thự, su su lan ra bên đường.
Chợ quán cũng tràn đầy tiếng chào mời mua ngọn su su. Ở đây người ta trồng su su nhưng chỉ để thu hoạch ngọn là chính, thu hoạch quả là thứ yếu. Thứ đặc sản này chẳng những đến với chúng tôi trong từng bữa ăn mà còn sâu đằm khứu giác chúng tôi trong những bước ngao du ở cõi sương mù.
Cây ổi xanh tốt ở Tam Đảo.
Tôi có cái dở là ăn không được nhiều, uống cũng không khoẻ, nhưng cứ lẩn thẩn đi tìm những lò rượu đích thực, nhìn một cái, ngửi một chút, nếm một tí ti cho đã. Thì đây, ở Tam Đảo, người ta đựng rượu trong ống tre ngà nhẵn bóng, gọi là rượu ống. Ngoài ra thêm hai bánh xe đặt chênh chếch nhìn giống như khẩu thần công, gọi là rượu pháo.
Thực ra, đâu cũng vậy, rượu đã sơn phếch quảng bá như thế này thường không ngon bằng thứ rượu đến tận làng, múc ra từ chum lọ hay hứng từng giọt nhỏ tong tong qua đốt trúc.
Đường lên tháp truyền hình Tam Đảo.
Ngoài ẩm thực, tôi cũng làm cái chuyện hơi bị "đáy bể mò kim" là muốn lặn lội tìm trong 490 loài thực vật và 281 loài động vật toàn những thứ quý hiếm như cá cóc, gà so cổ đỏ… để chụp hình.
Nghe nói ở chân núi còn có người Sán Dìu, thường đi rừng lấy mật ong, hái quả hoang và cung cấp gà đồi, lợn mán, mít chuối cho chợ Tam Đảo. Người Sán Dìu bảo rằng: “Nìm sluy, slị nhót phạc va tô, tách cháo vồ; hồng va tô, tách sì vồ” (Cây sim nở hoa vào tháng Tư, hoa trắng nhiều thì được mùa lúa sớm, hoa đỏ nhiều thì mùa lúa muộn).
Họ còn cho biết những kinh nghiệm, đại loại măng tre mọc vào tháng Chín ta, nếu mọc giữa búi thì rét, mọc bên ngoài thì trời nóng; hoặc tổ ong vò vẽ nếu đóng cao thì trời lũ lụt, đóng thấp thì trời hạn hán. Hồi nhỏ, sống ở nhà quê, việc trồng trọt săn bắt trên những sườn non là điều không lạ, bất chợt nghe những câu Sán Dìu đầy hình ảnh gần gũi, tôi rất cảm tình.
Hoa sen nơi đất cổ Văn Lang.
Chợ Tam Đảo có nhiều mùi vị của núi rừng lẫn trung du, nhưng nhìn quang gánh lấm láp, tôi chịu không thể phân biệt giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số, bởi không tìm ra trang phục cũng như ngôn ngữ đặc trưng. Có chăng, là quần áo thổ cẩm đã thành hàng công nghiệp, mà chợ miền núi nào cũng có.
Ngoài ra, ở đây còn có đàn tơ rưng mini (làm đồ chơi trẻ em) và nhà rông (làm nhà nghỉ), cả hai cái này đã dấy lên tí chút không khí… Tây Nguyên.
Thằng bạn Châu Kim vui tính của tôi đã nhắc nhở rằng tôi không phải là nhà dân tộc học và nhiệm vụ chính của tôi là rắc thêm tí hoa mộng lên khung trời sương mù chứ đừng nên xét nét cho ốm người, nhưng tôi vẫn cứ vương vấn một cách lẩn thẩn vì những chuyện như thế.
Còn hắn, hắn bảo mình đang bồi hồi nhớ về mười hộ người Dao xa xưa phải bỏ làng mà đi do bọn thực dân xua đuổi, giờ không biết lưu lạc phương nào. Hắn cũng bảo hắn rất thương cảm những người cần lao bản địa, họ là hậu duệ của những phu phen khổ ải từ các tỉnh miền Bắc, bị trưng dụng phá đá mở đường, gánh gồng, khuân vác, xây cất khu nghỉ mát cho các quan Tây thời thuộc Pháp. 150 ngôi biệt thự mọc lên từ những năm 1904 đến 1939 là làng Tây đối lập với làng An Nam nhà dột cột xiêu tiêu điều mái rạ cách đó không xa.
Nhà sáng tác ở Tam Đảo.
Tam Đảo giữa mùa Hè, nhưng nắng vàng vẫn hiếm hoi. Nó như một thứ đặc sản dễ thương bên cạnh chuối rừng, quất rừng, mật ong rừng, hoàng vũ lan kiêu sa. Nhưng đâu có thế. Vị hoàng tử cưng của mặt trời này như chỉ thỉnh thoảng mới ghé về thăm người em sương mù đằng đẵng và phả chút hơi ấm không bao giờ thừa thãi.
Như còn nuối tiếc những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, người em sương mù cứ trào dâng, từ các chóp núi sà xuống, từ các rặng cây tỏa ra, bao phủ những con đường, những mái nhà, len lỏi vào các ô cửa sổ. Sương mù cho con người những cái bất ngờ. Có những lúc, trong mây bất ngờ hiện ra một người quen, gần chạm mặt mới nhận rõ.
Có người bảo, nếu nhân cách hóa, sứ mệnh hóa những vùng đất, thì Đà Lạt, Bạch Mã, Sa Pa, Mẫu Sơn, Tam Đảo… đích thị là những nàng thơ. Cõi thơ thì luôn luôn gợi nhiều hơn tả, hàm súc để dư ba, dồn nén để miên man, ôm ấp vô biên những mầu sắc, âm thanh nhịp điệu của trời.
Có phải vì thế mà người xưa đã thần tiên hóa ngôn từ khi nhắc về Tam Đảo, với những hình tượng bồng bềnh như Chợ Trời, Vườn Tiên, Am Gió, Thang Mây… Lên Tam Đảo có cái thú lặn lội giữa miền xưa non nước vua Hùng, nhìn ra bốn xung quanh là những địa danh dễ làm lòng ta xao động: Mê Linh, Việt Trì, ngã ba Hạc… Đi trong Tam Đảo sương mù, bên cạnh bao điều thú vị là xiết bao trân trọng đối với thiên nhiên và lịch sử.
Phút giải lao quán cóc ở Tam Đảo
Thác bạc Tam Đảo
Thăm đền bà Chúa Thượng Ngàn ở Tam Đảo.
Ngày tạm biệt Tam Đảo, chúng tôi ngược về Đất Tổ, lên núi Nghĩa Lĩnh thắp hương nơi đền Hùng. Ngoái trông mây trắng bay, chúng tôi lâng lâng niềm vinh hạnh, rằng trong ba vạn sáu ngàn ngày của đời người, mình đã có những ngày thơ mộng với Tam Đảo sương mù. Nhấp nhô giữa biển mây, ba ngọn núi: một lô nhô người nhà trời (bằng đá) họp chợ, một có chiếc bàn đá ngồi bàn thế sự, một vua Hùng thường cử các quan đến cầu việc nghĩa cho giang sơn xã tắc.
Bản chất của thiên nhiên là sự nên thơ, nên đã gợi cho con người những ý tưởng nhân ái. Và những ý tưởng nhân ái của con người cũng góp phần chính trong việc nên thơ hóa thiên nhiên. Bằng chiếc lá dong thơm thảo, thiên nhiên Tam Đảo đã cung cấp cho lịch sử mùi hương vạn thuở.
Chẳng biết những đêm ngủ ở Tam Đảo, có ai trong giấc mơ từng gặp ánh mắt hân hoan Lang Liêu, từng nghe âm vang những tiếng trống đồng và tiếng vỗ cánh của loài chim Lạc như giấc mơ của tôi.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.