Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong dòng chảy lịch sử dân tộc
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, sợi chỉ đỏ gắn kết toàn dân tộc
Hoan Nguyễn
Chủ nhật, ngày 23/04/2023 06:30 AM (GMT+7)
Lịch sử dựng nước và giữ nước suốt hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam được mở đầu bằng thời đại Hùng Vương. Người Việt suy tôn các vua Hùng là Thủy tổ của dân tộc, việc thờ cúng Hùng Vương đã trở thành tập quán, tín ngưỡng và cứ thế được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mang tính bản địa sâu sắc
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân - con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục lấy nàng Âu Cơ - con gái Vua Đế Lai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai. Sau đó, năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người theo cha xuống biển lập nghiệp.
Người con cả theo mẹ lên vùng đất Phong Châu (nay là Phú Thọ) lập ra nước Văn Lang và được tôn làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước đầu tiên trong lịch sử của người Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các Vua Hùng đã dạy dân trồng lúa nước và chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để thực hiện những nghi lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp.
Để ghi nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng, người dân đã lập đền thờ tưởng niệm, lấy trung tâm là núi Nghĩa Lĩnh (Khu di tích lịch sử Đền Hùng, xã Hy Cương, TP.Việt Trì) và lấy ngày 10/3 âm lịch hằng năm là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Suốt bao nhiêu đời nay, thờ cúng Vua Hùng đã trở thành tín ngưỡng văn hóa đặc trưng, mang tính bản địa sâu sắc của người Việt.
Ngày 6/12/2012, UNESCO chính thức công nhận "tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, thể hiện sức mạnh đại đoàn kết trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta.
Bà Phạm Thị Hoàng Oanh - Phó Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết: "Từ lòng biết ơn đến tôn kính các thế hệ tiền nhân và tổ tiên, gia đình, dòng họ, dân tộc ta đã phát triển hình thức sinh hoạt văn hóa, tinh thần ấy thành một đạo lý và tín ngưỡng dân tộc độc đáo, là tín ngưỡng thờ một tổ tiên chung của toàn dân tộc - các Vua Hùng.
Thờ cúng Hùng Vương có một tầm quan trọng trong tâm thức của người Việt, khẳng định người Việt có chung một thủy tổ. Nguồn gốc đó là sợi chỉ đỏ tạo nên truyền thống đoàn kết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Thờ cúng Hùng Vương, đã trở thành một biểu tượng văn hóa - tín ngưỡng kết nối quá khứ với hiện tại, có tác dụng vun đắp tình cảm với gia đình, làng xã và dân tộc. Với ý nghĩa đó, cộng đồng người Việt tự nguyện giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương một cách tự nhiên, không khiên cưỡng".
Phú Thọ là tâm điểm của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Các ngôi đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng ra đời gắn với quá trình phát triển của các làng xã dưới chân núi.
Theo các nhà nghiên cứu, ngôi đền Trung có tên chữ là: Hùng Vương Tổ miếu (Miếu thờ Tổ Hùng Vương), do dân làng thôn Trẹo thờ cúng. Đến thời Lý - Trần, cư dân thôn Trẹo đông lên, lập ra làng Cả, rồi họ dựng đền Thượng trên đỉnh núi, sau đó lập ra đền Hạ. Từ làng Trẹo, cư dân lấy tên làm họ của mình và phiên âm Hán-Việt thành Triệu, từ đó thôn Triệu thành thôn Triệu Phú và người làng Trẹo thành họ Triệu ngày nay. Hiện nay, họ Triệu vẫn còn bản tộc phả hơn 500 năm kể về sự tích của làng và việc lập các đền thờ này.
Như vậy, vùng tâm điểm của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Khu di tích lịch sử đặc biệt quốc gia Đền Hùng ở thôn Cổ tích, xã Hy Cương, TP.Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Từ đỉnh núi Hùng - trung tâm thờ tự các Vua Hùng đầu tiên này, theo dòng chảy thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần dần lan tỏa tới các địa phương khác.
Đầu tiên là các vùng đất quanh chân núi Nghĩa Lĩnh như đình làng Cổ Tích (xã Hy Cương), đình làng Trẹo (thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao), đình làng Cả (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao)… Sau đó lan tỏa khắp các tỉnh, thành trong cả nước, tập trung ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung và tiến sâu vào đất phương Nam theo dấu chân mở đất của người Việt. Giờ đây, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã có ở nhiều nước trên thế giới, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nay trong cả nước có hơn 1.400 di tích thờ Hùng Vương và vợ con, tướng lĩnh thuộc thời đại Hùng Vương. Riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có hơn 300 di tích gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Phú Thọ là tâm điểm của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với những hoạt động lễ, hội diễn ra trang nghiêm, thành kính tại các ngôi đền trên núi Hùng và các di tích thờ Hùng Vương, thu hút hàng triệu đồng bào cả nước và kiều bào tham gia trong dịp giỗ Tổ hàng năm. Cùng với tỉnh Phú Thọ, các địa phương có điểm thờ Hùng Vương đều tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm các vua Hùng theo hướng dẫn chung của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Vì vậy, ngày giỗ tổ Hùng Vương đã thực sự trở thành ngày hội của đồng bào từ Bắc chí Nam.
Không chỉ ở trong nước mà trên thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng lập đền thờ các Vua Hùng hoặc các điểm thờ tự để đặt ban thờ, bài vị và tượng Hùng Vương để cùng dâng hương, nhớ về tổ tiên trong ngày quốc lễ.
Bà Phạm Thị Hoàng Oanh - Phó Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng nhấn mạnh: "Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp. Nơi đâu có người Việt sinh sống thì có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các Vua Hùng. Những không gian tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ấy chính là sự hồi cố về quá khứ, về lịch sử, là những bằng chứng sinh động, đầy sức thuyết phục về sự bảo lưu và phát triển của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong cộng đồng người Việt.
Các di tích và địa điểm thờ tự Vua Hùng ở khắp nơi luôn được người Việt bảo tồn, gìn giữ và xây dựng chính là sự khẳng định giá trị tâm linh bền vững trong đời sống tinh thần của cộng đồng. Đó chính là hành trang tinh thần vô giá của cả dân tộc để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước".
Có thể khẳng định, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thể hiện sự ngưỡng vọng, đồng thuận, tự nguyện của cộng đồng người Việt trên khắp mọi miền của đất nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài. Các giá trị của tín ngưỡng ấy luôn được bảo tồn, phát triển ngày càng sâu rộng và luôn được trao truyền, thực hành từ thế hệ này sang thế hệ khác để trường tồn cùng sự phát triển của dân tộc.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.