Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (KSND TC) vừa kháng nghị, đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao xét xử thủ tục giám đốc thẩm, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã tuyên Hồ Duy Hải về tội “giết người”, “cướp tài sản”.
Câu hỏi lớn nhất đọng lại trong dư luận là, năm 2011, Viện trưởng Viện KSND TC từng ban hành quyết định không kháng nghị vụ án của Hồ Duy Hải, nay sau 8 năm, dù không có tình tiết gì mới, Viện trưởng Viện KSND TC lại ban hành quyết định kháng nghị?
Theo tôi, một trong lý do quan trọng là công luận phản ứng mạnh mẽ với những cán bộ tiến hành tố tụng, đặc biệt, Đoàn giám sát của Quốc hội về án oan sai đã xếp vụ án này là 1 trong 3 vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Tại phiên thảo luận của Đoàn giám sát ngày 20/3/2015, bà Lê Thị Nga - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (hiện là Chủ nhiệm Ủy ban), Phó trưởng Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nêu rõ: Những vụ án khác chỉ cần 1 trong 4 căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, trong khi vụ án Hồ Duy Hải có đầy đủ cả 4 căn cứ: Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có sự vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử; có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự.
Vậy vì lẽ gì, hơn chục năm nhận đơn kêu oan của gia đình, phản ánh của báo chí và của Quốc hội, lãnh đạo các cơ quan chức năng tiến hành tố tụng của tỉnh nắm chắc vụ việc lại không phát hiện những vi phạm tố tụng này, thậm chí, đến năm 2011, Viện KSND TC cũng không đánh giá được những sai sót này? Liệu vụ án này có uẩn khúc gì không?
Bản án tuyên Hồ Duy Hải (áo trắng) tử hình về tội “giết người”, “cướp tài sản”, vừa bị Viện KSND TC kháng nghị do những thiếu sót, vi phạm tố tụng nghiêm trọng. (Ảnh do người nhà cung cấp)
Chúng tôi đặt ra câu hỏi này bởi lẽ, có những dấu hiệu ngăn cản việc làm rõ những án oan sai, rõ nhất là vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn. Khi có thông tin mới về kẻ giết người, phòng 1 Cơ quan điều tra Viện KSND TC lập tức vào cuộc. Nhưng khi lên làm việc với Công an Bắc Giang mới biết, họ cũng có thông tin mới này nhưng vẫn khẳng định ông Chấn là tội phạm. Thậm chí, theo điều tra viên Trần Mạnh Hùng (Viện KSND TC), công an Bắc Giang còn khuyên: “Các anh nên quay về, đừng mất công vô ích, thằng này kêu 10 năm nay rồi, thiếu gì việc để các anh làm. Chẳng lẽ các anh không tin tưởng cả một hệ thống tố tụng của tỉnh, vụ này cấp trên xem lại nhiều lần rồi”. Do đó, mất một thời gian dài, các điều tra viên của Viện KSND TC phải cải trang để bí mật điều tra và tìm các giải pháp bảo vệ nhân chứng. Điều này cũng có thể lý giải, vì sao có những vụ án oan sai kéo dài, rất dài. Đó là chưa nói, có thể còn những vụ án chìm luôn trong bóng tối.
Nói đến vụ án ông Chấn, dư luận nhớ ngay đến những hình thức điều tra viên bức cung, nhục hình. Cũng do bị bức cung, nhục hình, trong cả 3 kỳ án Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn và Hàn Đức Long có một điểm rất chung là, dù không giết người, nhưng trong bản khai họ mô tả việc giết người với đầy đủ các tình tiết đúng với hiện trường!? Điều đó cho thấy, mức độ bức cung, nhục hình của các điều tra viên khủng khiếp tới mức nào. Đặc biệt, trong lịch sử tố tụng Việt Nam, ông Nén là người duy nhất mang hai án oan về tội giết người.
Nếu ông Nén vì bị bức cung, nhục hình đành khai bừa 9 người trong gia đình nhà vợ cùng tham gia vụ án giết người, thì ngay từ năm 1955, tình trạng đó cũng đã diễn ra trong vụ án chị Nguyễn Thị Là (thôn Thượng Thông, xã Phạm Hồng Thái, Đông Triều, tỉnh Hồng Quảng, nay là Quảng Ninh) bị giết. Đây là vụ án mà tôi được điều tra viên của Viện Kiểm sát Quân sự Nguyễn Trọng Tỵ (khi về hưu, ông có thời gian dài làm Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Hà Nội), người trực tiếp điều tra vụ án này kể lại tại nhà riêng của ông. Nạn nhân là chị Nguyễn Thị Là bị vết búa bổ thẳng vào trán và hung thủ tiêu hủy chứng cứ bằng cách đốt chị trong chiếc lều nạn nhân đang ở. Người duy nhất bị nghi vấn là ông Đỗ Văn Mạnh – người cùng thôn. Lý do là ngay sau hôm xảy ra vụ án, mọi người thấy Mạnh đang giặt quần áo ở mương nước với những vết máu loang. Thế là ông Mạnh bị bắt, bị bức cung, nhục hình buộc phải nhận tội. Nhục hình tới mức ông Mạnh khai bừa thêm chị ruột và chú ruột mình nhằm làm “đẹp” hồ sơ theo ý của các điều tra viên.
Mãi 8 năm sau, khi Viện kiểm sát Quân sự Trung ương vào cuộc, bởi chồng của nạn nhân là quân nhân, đối tượng gây án mới bị lộ mặt. Kể giết chị Là chính là chồng mình, đối tượng Phạm Ngọc Bội. Khi thú tội, thượng úy, tiểu đoàn trưởng Bội thú nhận giết vợ chỉ nhằm che giấu tội hủ hóa!?
Nhưng điều tôi ám ảnh nhất, trong cả hai vụ án của ông Nén, ông Mạnh, họ bị điều tra viên sử dụng nhục hình tới mức phải nhận bừa tội và khai thêm những người ruột thịt của mình cho phù hợp với các tình tiết vụ án. Thật kinh hoàng.
Vấn đề đặt ra là, vì sao các điều tra viên trong những vụ án này và một số vụ án khác lại hay sử dụng cách bức cung, nhục hình? Câu hỏi tiếp theo không thể không đặt ra, thủ trưởng của họ và các kiểm sát viên có biết những điều cấm kỵ trong tố tụng này không? Lẽ nào họ không biết, khi hầu hết trong bản cung, cũng như tại tòa, những bị cáo này luôn kêu oan và tố cáo các dạng nhục hình của từng điều tra viên.
Cuối cùng, dư luận băn khoăn là, các điều tra viên sử dụng bức cung, nhục hình và sự làm lơ của kiểm sát viên, thậm chí cố tình bỏ ngoài hồ sơ những bản cung có lợi cho bị cáo là một trong những nguyên nhân chính gây ra những án oan thấu trời. Nhưng vì sao chỉ trong vụ án ông Chấn, những đối tượng này bị khởi tố, còn các vụ án khác, họ chỉ bị kiểm điểm?!
Cũng cần khẳng định, những vụ án oan dù chỉ rất ít, nhưng thực sự gây nhức nhối, hoài nghi trong dư luận. Vì vậy, để xóa bỏ điều đó, minh oan cho các nạn nhân, đòi hỏi sự công tâm và nỗ lực hết sức của một số cán bộ điều tra, đặc biệt là cơ quan điều tra của Viện KSND TC.
Vui lòng nhập nội dung bình luận.