Tại Lễ Hịch văn Hội minh thề, nghi thức
để thực hiện lời thề gồm: 1 ban thờ; những người có chức sức trong làng tương ứng
với các chức Lý trưởng, Phó lý… thời xưa tham gia thề; một con dao nhọn sắc; một con gà trống và một
bình rượu đặt ngay dưới ban thờ.
Lễ hội minh thề xuất phát từ năm 1561 khi Thái hoàng, Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản (vợ
Thái thượng hoàng Mặc Đăng Dung) đã đến lập ấp Lan Niểu (nay là thôn Hòa Liễu),
vận động dân làng mở rộng diện tích chùa, làm mới tượng phật. Bà đã xuất tiền
mua được 25 mẫu, 8 sào, 2 thước. Sau đó, những người dân trong làng thấy việc
cung tiến ở chùa mang lại phúc đức nên cung tiến cả ruộng vườn vào chùa. Diện
tích chùa và đất canh tác lên tới 47 mẫu, 8 sào, 2 thước.
Trong thời gian xây dựng, ngoài diện
tích chùa, một phần diện tích ruộng vườn được Hoàng hậu Ngọc và những người có
chức sắc trong làng chia cho những người trông chùa canh tá, diện tích còn lại
được cho cấy khoán. Sản phầm thu được chia cho người nghèo trong vùng.
Lương thực dưa thừa, được tích trữ
hàng năm khoảng 3 tấn thóc, do người có chức sắc trong làng giữ. Để không bị
thụt tài sản công, Thái Hoàng, Thái Hậu cùng với dân làng đã lập ra Hịch văn
Hội minh thề. Đối tượng cụ thể là những người đứng đầu trong làng (Lý trưởng,
Phó lý, Chánh hội, Phó hội, Trương tuần.) và dân làng là tất cả những người tuổi từ 18 trở
lên đều tham gia. Kể từ đó, phong tục vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Những người tham gia Hịch Văn Hội minh
thề phải thề trước các vị thần linh nếu lấy của công phục vụ việc công thì được
thần linh ghi nhận, nhược bằng tham công lấy của công làm của tư thì nguyện
cầu bị trư thần linh đả tử. Đối với các cụ già đến trẻ phải dụng bảo con cháu
không được tham nhũng, nếu không nguyện cầu bị trư thần linh đả tử. Những ai
trong làng bao che tội phạm, chứa chấp của gian tà cũng sẽ bị thân linh
đả tử.
Cảm nhận được giá trị sâu sắc của Hịch
văn Hội minh thề, đời vua Tự Đức triều nhà Nguyễn năm thứ 6 (1853) và vua Duy
Tân năm thứ nhất (1901) đều ra sắc chỉ phong cho Thái Hoàng, Thái Hậu là Hoàng
triều Thái Hậu thờ ở đền làng.
Trong thời kỳ kháng chiến, chùa Hòa Liễu là nơi hoạt động
bí mật, huấn luyện bộ đội…
Trải qua thăng trầm của lịch sử, năm
2003, lễ hội Hịch văn Hội minh thề được chính quyền địa phương và người dân
trong làng khôi phục và giữ nguyên được giá trị văn hóa thời xưa.
“Ảnh hưởng
của nét văn hóa, tâm linh, cán bộ thôn, xóm làng chúng tôi từ trước đến nay đều
liêm khiết. Trên địa bàn không có trọng án. Các thế hệ đều chăm lo nuôi dạy con
cháu yêu nước, sống đạo đức theo Hịch văn Hội minh thề” – Cụ Phạm Đăng Khoa (80
tuổi) – người có công phục dựng lễ hội nói.
Lễ hội Hịch văn Hội minh thề đã góp
phần giáo dục truyền thống yêu nước, đạo đức, lối sống lành mạnh, tình nghĩa xóm
làng cho các thế hệ. Từ giá trị văn hóa, tinh thần, sự đóng góp trên, năm
1993, chùa Hòa Liễu được Đảng – Nhà nước trao tặng Huân Chương Kháng chiến hạng
3 và được công nhân là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Trên đây là một số hình ảnh diễn biến
của Lễ hội Hịch minh thề.
Nghi lễ bắt đầu của Hịch văn Hội minh thề. Đọc Hịch văn Hội minh thề và thề. Con dao cắt tiết gà được cắm trung tâm vòng tròn khi người chủ lễ làm nghi lễ. Con gà trống được đưa ra tế thần linh trước khi thực hiện các nghi thức tiếp theo. Cắt tiết gà vào bình rượu. Những người tham gia Hịch văn Hội minh thề uống rượu thề. Đông đảo người dân và khách thập phương tham gia lễ hội.
Mạnh Thắng (Mạnh Thắng)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.