"Lò luyện thi" thời phong kiến ở Việt Nam hóa ra là một làng khoa bảng đất Hưng Yên

Thứ sáu, ngày 07/07/2023 05:04 AM (GMT+7)
Không chỉ là ngôi làng khoa bảng nổi tiếng Hưng Yên và cả nước với hàng chục tiến sĩ thời phong kiến, làng Thổ Hoàng còn được ví như “lò luyện thi” khi sĩ tử bốn phương luôn tìm đến để củng cố kiến thức.
Bình luận 0

Hoàng giáp khai khoa


Theo sử liệu, làng Thổ Hoàng được hình thành cách đây gần 2.000 năm. Các tài liệu mà Thổ Hoàng còn lưu giữ được cho biết, vào khoảng thế kỉ 6 làng đã định hình hương ấp với phương pháp tổ chức chặt chẽ. 

Theo điển tích “thất tinh quần tụ”, Thổ Hoàng do các xóm Dường, Đình, Dộc, Cạo, Đá, Chùa, Lươn, Mụ hợp thành.

Kể từ khi triều đình phong kiến mở khoa thi kén chọn người hiền tài ra giúp nước cho đến khoa thi cuối cùng, làng Thổ Hoàng đã có hàng trăm người đỗ cử nhân, tú tài ở các kỳ thi. Trong đó có 12 người đỗ đại khoa và là một trong mười hai làng có nhiều người đỗ đạt cao nhất cả nước.

Tiêu biểu nhất trong các nhà khoa bảng của làng Thổ Hoàng là cụ Nguyễn Trung Ngạn - vị Hoàng giáp đầu tiên của nền khoa cử phong kiến Việt Nam. Năm 12 tuổi, ông đỗ Thái học sinh, năm 16 tuổi đỗ Hoàng giáp (1304), là vị Hoàng giáp trẻ nhất cả nước và cũng là ông tổ khai khoa của làng Thổ Hoàng.

"Lò luyện thi" thời phong kiến ở Việt Nam hóa ra là một làng khoa bảng đất Hưng Yên - Ảnh 1.

Làng Thổ Hoàng xưa, nay là Thổ Hoàng Cả thuộc huyện Ân Thi (Hưng Yên). Được coi là vùng đất lành, các xóm quây quần theo điển tích “thất tinh quần tụ” – Thổ Hoàng chính là quê hương của Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn nổi tiếng trong sử Việt.

Nguyễn Trung Ngạn trải qua nhiều chức vụ từ chức Thông giám đến Tể tướng. Ở cương vị nào, ông cũng là vị quan thanh liêm, hết lòng tận tụy, làm lợi cho nước, cho dân. 

Ông được vua nhà Trần bổ nhiệm giữ nhiều chức vụ quan trọng như là An Phủ sứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa), rồi làm Tào Vận sứ ở lộ Khoái Châu, Đại doãn kinh sư Thăng Long, Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Nhập nội Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật kiêm viện Khu mật, Đại học sĩ…

Về sau, ông làm quan đến chức Nhập nội Đại Hành khiển (tức Tể tướng), tước Thân Quốc công, đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều đình. Làm quan dưới 5 triều vua nhà Trần, Nguyễn Trung Ngạn xuất sắc trên mọi phương diện chính trị, quân sự, ngoại giao, luật pháp, sử học...

Nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn là 1 trong 10 danh thần lỗi lạc nhất của thời Trần. Còn nhà sử học Ngô Thì Sĩ nhận định: “Nho thần cả thời nhà Trần chưa thấy ai được tin dùng như Trung Ngạn”.

Trần Nguyên Đán, một nhân cách lớn thời Trần cũng ca ngợi Nguyễn Trung Ngạn “sáng rực như sao Bắc Đẩu, cao vòi vọi như núi Thái Sơn”.

Nguyễn Trung Ngạn được xếp vào hàng “Người phò tá có công lao tài đức đời Trần”, cùng với Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại, Trần Nguyên Đán.

Ngày nay, trên quê hương Thổ Hoàng còn lưu giữ được mộ phần của Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn. Phần mộ đặt trên cồn Con Nhạn, bởi thế đất có hình giống con nhạn rộng hơn 70m2, chung quanh xây viền gạch, tọa lạc ở phía Tây Nam làng Thổ Hoàng.

Trên mộ là nhà bia tưởng niệm hình vuông, 8 mái cong kiểu cổ, cao khoảng 3m. Trong lăng có bia đá khắc chữ Hán. Ngoài cổng nhà bia là hai cột đề câu đối: Ái quốc danh nhân công linh tại/ Trung quân chính khí sử ký tồn.

Đất lành chim đậu

"Lò luyện thi" thời phong kiến ở Việt Nam hóa ra là một làng khoa bảng đất Hưng Yên - Ảnh 2.

Nguyễn Trung Ngạn là vị Hoàng giáp khai khoa và trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.

Sau Nguyễn Trung Ngạn, Thổ Hoàng có Cáp Phùng (đỗ tiến sĩ năm 1463), Nguyễn Văn Bính (đỗ năm 1505), Nguyễn Chấn Chi (đỗ Hoàng giáp năm 1518), Vũ Đàn (đỗ năm 1526), Hoàng Tuân (đỗ Bảng nhãn năm 1553), Nguyễn Đức Trân (đỗ năm 1562), Hoàng Chân Nam (đỗ năm 1571), Hoàng Công Sân (đỗ năm 1670), Hoàng Công Bảo (đỗ năm 1710), Vũ Công Thắng (đỗ năm 1867), Vũ Trác Oánh (đỗ năm 1556), Hoàng Bình Chính (đỗ năm 1775).

Theo tìm hiểu của các nhà nghiên cứu, Thổ Hoàng không chỉ có nhiều người đỗ đạt thành danh, mà còn đỗ đạt theo hệ thống dòng họ. Đặc biệt, có những dòng họ cha con, ông cháu đều đỗ đạt như họ Hoàng có 5 người đỗ đại khoa là: Hoàng Tuân - khai khoa cho dòng họ Hoàng, Hoàng Chân Nam (cháu của Hoàng Tuân).

Hoàng Công Chí đỗ tiến sĩ năm 1670; Hoàng Công Bảo là con của Hoàng Công Chí, đỗ tiến sĩ năm 1710; Hoàng Bình Chính là cháu nội Hoàng Công Bảo, đỗ tiến sĩ năm 1775. Bên cạnh với đó là họ Vũ và họ Nguyễn, mỗi họ có 3 vị đỗ đại khoa.

Hiện nay, nhà thờ họ Hoàng là một trong những di tích nho học và khoa bảng của Hưng Yên, phối thờ tổ tiên dòng họ Hoàng và các vị tiến sĩ trong dòng họ. Được xây dựng từ năm 1893, nhà thờ họ Hoàng từng trùng tu lại và lưu giữ được một tấm bia đá rất có giá trị, có niên đại từ thế kỷ 17 do tiến sĩ Trần Thế Vinh (Tri phủ Khoái Châu) phụng soạn.

Không chỉ là làng khoa bảng nức tiếng đương thời, tương truyền Thổ Hoàng còn là một “lò luyện thi” khi sĩ tử bốn phương tìm đến để củng cố kiến thức trước khi bước vào các kỳ thi hương – thi hội.

Tiến sĩ Nguyễn Lệ ở Bình Hồ, tiến sĩ Lê Trọng Thứ ở Duyên Hà (cha của nhà bác học Lê Quý Đôn), sau khi đỗ đạt thì mến cảnh mến người nên cụ Lê Trọng Thứ đã cho con trai là Lê Quý Thái - em ruột nhà bác học Lê Quý Đôn về Thổ Hoàng sinh cơ lập nghiệp và lập ra xóm  Vườn Hồng.

Các cao niên Thổ Hoàng cho hay, theo sự tích truyền lại trước kia làng có 3 ngôi chùa, 9 giếng, 8 cổng cùng nhiều nhà thờ họ lớn, nhỏ khác nhau. Làng có 8 xóm, hai trại và 21 dòng họ, chung sống trên mảnh đất rộng chừng 2km2. Các nho sinh trước khi đi thi, thường dừng chân ở đây để ôn tập kiến thức và cầu vượng khí giúp mình hiển đạt.

Hiện nay, sử sách vẫn chưa thống nhất số lượng tiến sĩ của làng Thổ Hoàng. Một số tư liệu cho biết, Thổ Hoàng có đến 18 tiến sĩ, có tư liệu lại cho là 14 vị. Tuy nhiên, số lượng người đỗ đạt, làm quan của làng Thổ Hoàng càng về sau càng giảm.

Theo một câu chuyện truyền miệng, nguyên nhân làng mất vượng khí liên quan đến ngôi mộ của cụ Bùi Công Hộ - Thành hoàng làng. Thầy địa lý người Trung Quốc thấy vùng đất Thổ Hoàng có nhiều hiền tài, đỗ đạt hiển vinh làm quan trọng thần… nên tìm cách phá vượng khí ấy đi nhằm cắt mạch nhân hiền.

Họ thuê người đào một con kênh lớn và sâu, chạy thẳng từ đầu làng về hướng Nam. Để che mắt người dân, ban đầu thầy địa lý thuê Lý trưởng chỉ đạo người dân đào kênh để dẫn nước.

Theo kế hoạch thì con kênh sẽ được đào chạy thẳng lên phía Nam, nhưng khi đến gần mộ cụ Thành hoàng làng, lại hướng dẫn thợ đào vòng sang phía Tây, để phá đi long mạch.

Quê ngoại Bác Hồ

"Lò luyện thi" thời phong kiến ở Việt Nam hóa ra là một làng khoa bảng đất Hưng Yên - Ảnh 3.

Với 12 tiến sĩ, Thổ Hoàng là 1 trong 12 làng khoa bảng có nhiều người đỗ đại khoa nhất.

Nguyễn Trung Ngạn là vị Đại doãn kinh sư nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử thành Thăng Long. Trong thời gian ông làm người đứng đầu kinh thành Thăng Long đã có rất nhiều đóng góp cho nhân dân, thể hiện năng lực quản lý cũng như đức độ của vị quan thanh liêm, cho nên Nguyễn Trung Ngạn rất được người dân kinh thành và triều đình coi trọng - PGS.TS Vũ Văn Quân (Trưởng khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội).

Cụ tổ khai sinh ra dòng họ Hoàng ở làng Thổ Hoàng là cụ Hoàng Chân Tính làm nghề dạy học ở xa. Khi mất, con cháu đưa cụ về làng bằng bè chuối để chôn cất. Đoàn người về đến đầu làng thì đêm đã khuya, con cháu đành quần tụ ở đó và đợi sáng hôm sau làm nghi lễ. Tuy nhiên, chỉ sau một đêm mối đã đùn bao kín thi thể tạo thành một gò cao. Con cháu cho đó là điềm lành nên an táng cụ tại đó.

Cụ Chân Tính có hai người con trai là Hoàng Chính Nghị và Hoàng Tính Chân. Người con trưởng ở lại làng, người con thứ về Hoàng Vân lập ra họ Hoàng ở Vân Nội, Hoàng Vân, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên).

Hai người con của cụ, người ở lại thì con cháu phát đường khoa cử, văn chương. Người di cư thì con cháu phát đường võ nghiệp. Điều đặc biệt, nhánh họ Hoàng ở Vân Nội chính là cội nguồn dòng họ ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thái phó Hoàng Nghĩa Kiều là cháu 3 đời của tổ họ Hoàng ở Vân Nội. Cụ vào trấn thủ Nghệ An năm 1557, kết hôn và lập ra nhánh họ Hoàng tại Hoàng Trù (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Sau họ Hoàng ở Nghệ An được chia nhiều nhánh, trong đó có nhánh ở Kim Liên (Nam Đàn) đã sinh ra bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Bác Hồ. Chính bởi vậy, nguồn gốc họ ngoại của Bác Hồ xuất phát từ làng Thổ Hoàng.

Năm 2003, nhà thờ bà Hoàng Thị Loan được xây dựng tại quê hương thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến (huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Bên trong nhà thờ trưng bày những tài liệu, hiện vật giới thiệu công lao to lớn của bà Hoàng Thị Loan và ảnh hưởng của dòng họ đối với sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Trần Hòa (Báo Giáo dục và Thời đại)
Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem