Và màu của mùa Thu thênh thang xanh đến mềm tươi đầy nhựa sống trên lá non, mềm tươi đầy trải nghiệm trên những chiếc lá vàng.
Hơi thở của mùa Thu cũng nhè nhẹ hơn, không hừng hực như mùa xuân tràn đầy, không riết róng như mùa hạ nóng bỏng và không xuýt xoa như mùa đông lạnh giá… Ngày xửa ngày xưa, mùa Thu gieo hạt giống trong ký ức trẻ thơ là những dòng thu sang “Tôi đi học” của cố nhà văn Thanh Tịnh. Gần như không chỉ trong tôi, mà trong nhiều người khác, đó là một áng văn đẹp nhất về buổi tựu trường.
Mùa Thu xứ Huế.
Năm nào đó, giữa xứ Huế đọc xong bài “Thu điếu” của thi hào Nguyễn Khuyến, lòng thơ trẻ của tôi hình dung mùa thu là giấc ngủ trưa yên ả dưới khóm trúc nín thinh trong gió. Đến khi đọc “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, mùa Thu gõ vào nhịp tim tôi là tiếng lá khua động trong không gian tĩnh mịch rừng thưa của con nai mơ hồ nào đó.
Và khi nhìn thấy phiên bản bức tranh “Mùa Thu vàng” của Lê-vi-tan in trên giấy bóng trong tạp chí ảnh của Liên bang Xô Viết cũ, tôi nhận ra thế giới mùa thu không chỉ có tiếng dế mèn trái mùa nơi bãi biền ven sông, mà còn có cái mênh mông của thảm lá vàng rơi…
Mùa Thu tích cóp dần trong tôi qua tháng năm toàn là những kỷ niệm kiểu như thế, và lòng tôi luôn luôn mở cửa đón nhận những vị khách mơ hồ, hiền hòa và đầy bất ngờ cao rộng của sự nhẹ nhàng không biên giới, trải dài vô bờ bến như những làn sóng lăn tăn trên một dòng sông dìu dịu…
Trong mênh mông tuổi dại của tôi, mùa Thu đóng thành một lớp ẩm mục và thường thơm mùi sách vở trẻ thơ. Thế nhưng, mưa nắng đất Kinh kỳ cũng dạy dỗ cho tôi biết rằng giữa mùa thu trong trang sách với mùa thu thực tế ở Huế, đã có một khoảng cách biệt rộng lớn.
Ngày đầu tiên đi học của tôi, không có nắng vàng tươi rực rỡ trên cao, không có hoa cỏ hai bên đường và không có cả lá ngoài đường rụng nhiều…, mà hôm đó là một ngày “nắng tháng Tám nám trái bưởi”, nắng đổ mồ hôi cháy da cháy thịt mà cái nóng của nó hãy còn đeo đuổi tôi đến hơn ba mươi năm sau, đến tận bây giờ.
Hôm trước mở blog thấy có một người bạn nhắc nhở đặt dấu hỏi Huế làm gì có mùa Thu? Bèn nói thật là tôi nghĩ mùa Thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp cảm nhận ra rằng Huế có mùa Thu. Và rồi, cũng có thể vay mượn trong trí tưởng tượng một chút thu sang từ mơ hồ xa xôi nào đó để ứng với Huế, như thể cũng có mây bay trôi ngang đỉnh Ngự, như thể lá rụng đầy sông Hương hay trong những khu vườn Huế.
Thế rồi mới thấy là không thể tưởng tượng ra mãi, bởi vì vòm long não trên đường Lê Lợi vẫn ngang nhiên xanh, không nhuốm một chút vàng nào để rụng. Vậy Huế có mùa Thu không, mùa Thu Huế thế nào?...
Nếu định nghĩa mùa Thu chỉ đơn giản là “Mùa chuyển tiếp từ hạ sang đông, thời tiết mát dịu dần” thì quả thật mùa thu có ở khắp nơi trên trái đất, trừ xứ Huế vốn chỉ có hai mùa mưa nắng. Sang tháng Bảy, tháng chớm thu nắng đã vợi bớt nhiều so với tháng Năm, tháng Sáu, thế nhưng Huế vẫn nóng từng ngày.
Có thể nửa đêm về sáng giấc ngủ cần một mảnh chăn đơn cho ấm, nhưng đầu hôm tắt đèn vẫn phải để quạt chạy vù vù. Hơi thu vì thế, nói đùa như câu chuyện men rượu về khuya, bắt đầu len vào người từ lúc nửa đêm, lúc mọi người bắt đầu trôi vào giấc điệp, kể cả trong giấc mơ cô gái vừa đi qua cảm giác lâng lâng của lần đầu hò hẹn mà nụ cười hạnh phúc còn đọng trên khóe thu ba.
Có lẽ cái mát dịu của mùa Thu xứ Huế cũng chỉ đến với người len lén trong khuya sâu như thế thôi. Hình như Huế chỉ có mùa Thu về mặt thời gian, còn về mặt không gian thì họa hoằn lắm mới có được những ngày thu sang thắm thiết. Nhưng mà vẫn thấy mùa thu Huế chuyển rõ ràng sau những cơn mưa bất chợt như nước mắt vợ chồng Ngâu rơi xuống vào những ngày cuối hạ.
Mưa nhẹ thôi, từ tang tảng sáng, hay từ xê xế trưa, để im vắng một khoảng trời nhung nhớ truyền thuyết thủy chung từ đó giăng nhớ sang chiều, sang đêm. Mùa Thu xứ Huế về mặt không gian thì nhẹ nhàng, ngắn ngủi như không có gì, diễn ra cũng chỉ vài ngày im ắng, song về mặt thời gian thì lại nặng bao khối ân tình.
Ngoài chuyện vợ chồng Ngâu qua cầu Ô Thước gặp nhau trong ngày Trùng Thất, Huế còn có cả một mùa Vu Lan con cái báo hiếu cho cha mẹ. Huế có gần một nghìn ngôi cổ tự, ngày rằm tháng Bảy xá tội vong nhân, con cái lên chùa lễ Phật cầu cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi. Sông Hương năm nào cứ đến ngày rằm tháng Bảy, hoa đăng nhà chùa thả giăng đầy mặt sông, như màu thu hoa đăng rực lên trong đêm về ý niệm sống nhân bản. Trong cả năm, mùa phóng sanh nhiều nhất của người dân Huế cũng là vào dịp này.
Thế nhưng, tất cả những câu chuyện ân tình ấy lại diễn ra rất đỗi nhẹ nhàng như tiếng chuông chùa nhẹ đưa, như lá trúc khẽ chao nghiêng trước gió. Ở đây có hai điều cần nói. Thứ nhất là tính cách Huế chi thì chi đi nữa, vẫn là thứ tính cách nhẹ nhàng, khoan thai hạng nhất thế giới, nên tính cách Huế cũng có thể ví von như tính cách mùa thu (khác xa với tính cách sôi nổi rộn ràng như mùa xuân, tính nóng như lửa của mùa hè, tính lạnh như mùa đông). Thứ hai, người Huế thường hay đùa về cái tình cảm của mình “chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thăng trầm”, thấy cũng y như mùa thu xứ Huế. Như thể cái mát dịu được chắt chiu cả năm, để dành ra mát dịu cho đời được vài ngày thu Huế ngắn ngủi…
Gần như cái mát dịu của mùa Thu đi tìm nơi trú ẩn trong vườn hoa trái, nên mùa Thu là mùa cây trái xứ Huế chín rộ. Nhãn lồng Thành Nội vừa chín đến trái cuối cùng, các nhà vườn còn lủng lẳng thanh trà, cam, quýt, bưởi bồng…
Thanh trà Nguyệt Biều bây giờ đã thành thương hiệu hoa trái xứ Huế. Quả này uống nước sông Hương, ăn đất bãi bồi sông Hương nên ngon, ngọt, thơm mùi thanh khiết đất trời Hương Ngự. Từ tháng Sáu, thanh trà đã được các vườn bắt đầu thu hoạch, nhưng phải đến tháng Tám, thanh trà mới ngon. Là bởi vào tháng này, các cây đại lão thanh trà mới chín trái, trái nhỏ thôi, mà thơm mà ngọt quá chừng như hương mùa thu đã được tôi luyện.
Cũng vậy, tháng Tám quýt Hương Cần mới ngon. Quýt Hương Cần có đặc điểm khác với các quýt khác là trái nhỏ, hình hơi dẹp, ở đầu tự nhiên cái núm lún xuống như cái núm đồng tiền trên má người con gái. Ăn quýt Hương Cần nên chờ đến tháng này hãy ăn, ăn sớm quá, trái thơm gắt mà không ngọt. Ăn vào tháng này, trái chín ủ trong tiết trời nắng nóng đã dịu đi, nên cái mùi thơm vẫn thăng hoa mà vị ngọt lại như lắng đọng. Cắn một múi, nước tứa ra đầu lưỡi chưa kịp nhăn mặt đã nghe vị ngọt ùa đến bất ngờ, rồi mùi hương xộc lên mũi ngan ngát, rất riêng biệt. Cái ngon của quýt Hương Cần là vậy đó.
Lững thững về làng mùa Thu, mùi rơm phơi dọc đường làng dậy lên tươi mới thơm thơm ngọt ngọt. Sau những ngày nắng gắt, rau cỏ trong vườn như tươi non hơn sau những cơn mưa chuyển mùa. Để ý thì mới thấy rau muống dịp này ở Huế ngon nhất trong năm. Như thể cơn mưa sau chuỗi ngày nắng gắt mùa hạ đã đánh thức tất cả những mầm sống của cọng rau, khiến cái đọt rau nó trườn ra mãnh liệt, khiến cái ngọt thanh của cọng rau muống cũng được dịp mà non, mà mềm. Ăn rau muống dịp này nên ăn cả nước luộc vắt tí chanh, đơn giản vậy mà khó có sơn hào hải vị nào sánh bằng…
Về làng gặp lúc ngay sau trận mưa lớn, có khi lụt tiểu mãn, bấy giờ cánh đồng làng vừa gặt xong, cá rô, cá trê từ hói rúc lên đồng, chỉ cần đặt chẹp là bắt được khối cá. Con cá rô đợi sang tháng Mười mới ngon, nhưng lúc này cũng là lúc cá trê đã vàng lượm cái lườn béo ngậy. Cá rô bấy giờ mang đầy trứng kho với dưa cải, chắc không ai quên được món nồng đậm đồng quê…
Tháng Tám, những nương cải hoa vàng hoe lên trong nắng, có những đám vàng ven sông như một bức tranh quê lộng lẫy. Nhưng cũng nghe vọng trong tiếng gió thu tiếng ru xưa buồn buồn: “Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu lời đắng cay”, rồi lại “quýt làm cam chịu”… Thu chi mà cây trái ngậm đắng nuốt cay rứa hở trời!
Ngày xưa đúng là đầy nỗi bất an. Mà nay thâm trầm biến đổi khí hậu thì mùa Thu đến cũng là lúc âu lo một mùa mưa bão đang đến. “Tháng Bảy nước chảy lên bờ” mà. Người Huế đúng là “ăn no lo xa”. Ngồi ăn miếng ngon mà lòng đau đáu chuyện lụt bão. Xưa có câu thơ vịnh về thời tiết Huế: “Tứ thời trung hữu hạ, nhất vũ hòa vi đông” (bốn mùa đều có mùa hạ ở trong, một trận mưa đã hóa thành mùa đông) mới nghe đã ớn lạnh rồi.
Mùa Thu xứ Huế như còn mùa Hạ ở bên trong, cũng như có mùa Đông đã bắt đầu bén rễ. Nó ngắn chỉ bằng khoảng cách một trận mưa giữa cơn nắng nực, rồi vụt chốc khí trời lạnh lạnh ngả sang đông.
Mùa Thu Huế ơi, sao ngắn chẳng tày gang mà bao nhiêu câu thơ viết hoài không hết…
Báo Lâm Đồng (Theo Báo Lâm Đồng)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.