Nhiều tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm ngặt tác động mạnh đến hành vi của doanh nghiệp, giúp họ làm ăn có trách nhiệm hơn. Ảnh: H.B.
Hồi năm 2011, khi làm việc tại một dự án đối chuẩn về nuôi trồng thuỷ sản bền vững của hai nhóm thị trường Mỹ và châu Âu, nhiệm vụ của tôi là đánh giá chính cho một tiêu chuẩn sắp sửa ban hành. Sau khi đi học lớp “đánh giá viên quốc tế” về tiêu chuẩn này, vài tháng sau, tôi nghe báo đài mình đưa tin truyền hình Đức phê phán cá tra Việt Nam nặng nề. Theo đoạn phim, phần cuối là các DN Việt Nam xuất khẩu đổ xô đi chứng nhận cái tiêu chuẩn mới đó. Tôi có nghĩ là phía mua hàng ép mình quá, nhưng cũng nhận ra mặt tích cực là người ta phải nghĩ tới cách làm cho tốt hơn.
Trong mấy trại nuôi thuỷ sản đó, có trại bị cho là sát vách khu bảo tồn, nhưng nằm trong khu bảo tồn luôn, họ phá bớt rừng làm ao nuôi, tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Rồi có trại khác chuyển từ đất lúa qua đất nuôi thuỷ sản, nói là cho phù hợp với quy hoạch địa phương. Nếu họ không chứng minh được về gốc gác các ao nuôi, họ chỉ có nước kiếm địa điểm khác để làm trang trại chứng nhận.
Những câu chuyện hay nhất với tôi vẫn là đoạn đánh giá tác động có sự tham gia của cộng đồng, thấy trại nuôi thuỷ sản phải có thái độ rất dễ thương khi thương lượng với bà con mấy giải pháp hạn chế tác hại do việc nuôi của họ gây ra. Rồi họ phụ tiền với dân làm đường, đưa nước sạch về làng, cho bà con bùn thải làm phân bón cây, có chỗ còn tặng nhà tình nghĩa nữa, thấy là nhà kinh doanh ngời ngời trách nhiệm! Vậy, nhưng tánh tôi vốn hay nghi, tôi tự hỏi nếu khách mua hàng không ép liệu họ có làm đúng tiêu chuẩn không đây? Nếu tiêu chuẩn không ép liệu họ có không phá rừng để nuôi cá tôm, liệu họ có coi quy hoạch địa phương kiểu nào để theo, rồi liệu họ có tử tế với xóm làng? Thị trường hay là chỗ đó, khiến cho người ta làm ăn có trách nhiệm, có trước có sau hơn, dù muốn hay không trước tác dụng đó cũng phải khen thị trường.
Hai năm trước tôi huấn luyện tiêu chuẩn nuôi tôm bền vững ở Bangkok, Thái Lan. Lớp tôi có một nhóm học viên từ hiệp hội nuôi tôm của Ecuador. Họ hỏi chính phủ họ cho phép phá rừng ngập mặn nuôi tôm, vậy tiêu chuẩn cho phép không? Tôi nói không, nhưng nếu mấy anh thấy không thoả mãn với câu trả lời của tôi thì có thể biên thư hỏi thẳng tổ chức ban hành tiêu chuẩn.
Tôi không biết sau đó họ có biên thư không, nhưng tôi nghĩ hoá ra cũng có nhiều chỗ muốn phá rừng nuôi tôm, và điều đó thì thị trường (đây là nói những người xây dựng các tiêu chuẩn) có biết, nên họ mới đưa cái yêu cầu đó vô tiêu chuẩn. Sau vụ đó, tôi hay nói với học viên của mình rằng tiêu chuẩn nó hay ở chỗ họ đã sử dụng “sức mạnh thị trường” để chuyển hoá ngành nuôi trồng theo hướng có trách nhiệm và bền vững hơn.
Từ phát hiện này, tôi thấy tò mò về cách mà thị trường đã sử dụng sức mạnh của nó trong nỗ lực thay đổi hành vi nhà sản xuất theo quan niệm mà thị trường cho là có trách nhiệm hơn, bền vững hơn. Tôi tìm kiếm lý do đằng sau những yêu cầu của các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội, về sản xuất có trách nhiệm, mua hàng có trách nhiệm và tất cả các thể loại trách nhiệm mà DN cần xem xét khi tham gia bất kỳ mắt xích nào trong chuỗi cung ứng. Ví dụ, tại sao lao động trẻ em lại là một trong những yêu cầu nền tảng của nhóm tiêu chuẩn này?.
Nếu không có những sự thật được vạch trần trong phim tài liệu Mặt tối của sôcôla thì chả ai biết trẻ con được sử dụng nhiều như thế trong các đồn điền cacao ở tận châu Phi hay Nam Mỹ. Hay một ví dụ khác, tại sao mấy tiêu chuẩn đó yêu cầu DN phải xem xét lương tối thiểu và lương đáp ứng nhu cầu cơ bản, tiến tới lương đủ sống của người lao động? Không phải có nhiều quốc gia ngoài Việt Nam, như Campuchia hay Trung Quốc thu hút đầu tư nước ngoài với lao động giá rẻ đó sao.
Rồi tôi nhìn lại vụ tôm Thái Lan bị tẩy chay ở châu Âu và Mỹ hồi khoảng năm 2013, không lâu sau khi công nghiệp tôm nước này thoát khỏi khủng hoảng vì dịch bệnh. Lý do là vì người ta phát hiện các tàu đánh bắt Thái Lan sử dụng lao động nô lệ. Mà tàu này có đánh bắt tôm đâu, họ đánh bắt hải sản, trong đó có cá tạp được sử dụng làm nguyên liệu chế biến bột cá, và bột cá này là một thành phần không thể thiếu trong thức ăn nuôi tôm, một mắt xích ở tận đầu chuỗi cung ứng đã giết mắt xích cuối chuỗi như vậy đó.
Nhiều nhà quan sát cho rằng, có thế lực muốn kìm hãm sự phát triển của tôm Thái Lan vốn rất mạnh và có mặt khắp các siêu thị trên các châu lục hiện có. Tôi không biết động cơ thế nào, nhưng điều tôi nhận thấy là người Thái không than trời trách đất, mà họ hành xử khôn ngoan. Hai “ông lớn” trong ngành đã chủ trì lập ra diễn đàn Seafood Task Force, và kêu gọi sự sát cánh của những ông lớn khác trong các ngành phụ trợ như thức ăn, bột cá.
Chẳng những thế, họ còn lôi kéo luôn cả cộng đồng quốc tế vào diễn đàn này để hỗ trợ (mà tôi cho là để làm chứng là chính) họ vạch ra và cho cả thế giới thấy cam kết của họ đi theo con đường tiến tới sự bền vững như kỳ vọng của thị trường. Chỉ ba cái tên Walmart, Tesco và Costco thôi cũng đủ đảm bảo cho độ tin cậy của diễn đàn này rồi. Tôi thích, nói đúng hơn là nể phục cái cách người Thái ứng xử với sức mạnh thị trường.
Trông người lại nghĩ đến ta, hồi đầu năm nay, trước thềm hội chợ thuỷ sản quốc tế diễn ra ở Boston và Brussels, ngành thuỷ sản phát sốt với vụ nhà đài Tây Ban Nha và tạp chí Seafood Source, cho biết cá tra Việt Nam nuôi trong môi trường ô nhiễm, hậu quả là mấy siêu thị bên châu Âu dừng nhập và gỡ cá tra Việt Nam ra khỏi kệ hàng của họ. Nhà mình, chừng như để phản đối hay biện minh, gọi đây là vụ “bôi nhọ”. Vậy mà mới đây thôi, một tờ báo điện tử đưa bài Đến lượt cá tra cũng lo ngại dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Như vậy, tình trạng môi trường nuôi đang bị ô nhiễm là có thật, nhưng không phải chỉ do hoạt động nuôi, mà là do sự cộng dồn của các hoạt động nông nghiệp khác. Có lẽ các bên liên quan nên ngồi lại với nhau, phân tích vấn đề một cách thấu đáo, đa chiều để có thể đạt được giải pháp căn cơ và đồng bộ, cũng là để chuyển hoá “đe doạ” từ thị trường thành cơ hội đối thoại và cải tiến cho chúng ta vậy.
Kim Thanh (Chuyên gia về tiêu chuẩn nông – thuỷ sản) (Thế Giới Tiếp Thị)
Vui lòng nhập nội dung bình luận.