Tết Thanh minh, nhớ những người đã khuất!

Nguyễn Hữu Hiệp Thứ ba, ngày 01/04/2014 13:33 PM (GMT+7)
Theo quan niệm truyền thống của người Việt, “sống cái nhà, thác nấm mồ”, vì vậy nếu lúc sống có an cư mới lạc nghiệp thì khi chết, ai ai cũng được chôn cất đàng hoàng, mồ mả tử tế.
Bình luận 0
Ngày xưa, do tuyệt đại đa số người dân đều nghèo khó, thành thử hầu hết đều là mả đất, theo kiểu “cao nấm, ấm mồ”. Tuy mả đất nhưng nhờ được thường xuyên chăm sóc, tô bồi ít lắm cũng từ một đến hai lần trong năm vào dịp “Thanh minh trong tiết tháng Ba”, bắt đầu từ sau tiết Đông chí 106 ngày, và gần Tết, gọi “tỉnh tảo”.

Lễ Thanh minh ở Nam Bộ, tuy lác đác đó đây vẫn có đốt “xá phướn, lầu kho”, và rải “tiền âm phủ”, nhưng không quá “dữ dội” như một số nơi.

img
Miếu Âm Nhơn, núi Sam.
Còn về việc tu sửa mồ mả, dù bận rộn thế mấy hay vì cuộc sống phải đi làm ăn xa, vào những ngày cuối năm, muộn lắm cũng từ 20 – 22 tháng Chạp, ai cũng tranh thủ viếng cúng, giẫy cỏ mồ mả Ông bà. Nếu vì lý do nào đó con cháu không về được, lương tâm họ không thể không ray rứt!

Cảm thông tình cảnh ấy nên đến ngày 23 đưa ông Táo về trời, bà con cư ngụ xung quanh không thể để những nấm mồ kia cỏ rác mọc um tùm, nên tự làm thay con cháu, gọi “giẫy mả thí”. Điều đáng lưu ý là việc làm này chỉ diễn ra từ ngày 23 chứ không sớm hơn, bởi sau đó nếu con cháu về tới mà thấy có ai đó đã “giẫy mả thí” thì vô hình dung sẽ làm cho họ thêm buồn tủi mà thôi!

Mồ mả, trong tâm tưởng sâu kín mọi người, đó là một thứ vật thể đặc biệt có công năng kết nối quá khứ với hiện tại, rất thiêng liêng, nên con cháu không ai nỡ để cho mồ mả ông bà mình bị hư bể, lở sụp. Cho nên, khi mà con cháu không thất tán, không bị thiên tai hoặc chiến tranh tàn phá thì, mộ nào cũng vậy, cho dù đã lâu ngày, đến mấy chục năm thậm chí hàng trăm năm, vẫn nguyên vẹn, tròn trặn đẹp đẻ.

Nếu miêu duệ có điều kiện, họ không thể không cải tạo “mả đất” thành “mả đá” (nay tuy làm bằng xi măng, dân gian vẫn quen gọi là mả đá) để di tích vừa mỹ thuật vừa bền vững hơn cùng tuế nguyệt. Song song, mọi người đều thể hiện cao nhất sự chu toàn trong việc phượng thờ người quá cố (tại nhà), quanh năm khói hương không dứt…

Với mồ mả, người Nam Bộ không chỉ thể hiện sự tôn trọng mà còn có ý thức bảo vệ rất cao, cho nên bất kỳ mồ mả của ai, cho dù vô chủ, họ đều xem như có cái gì đó rất thiêng liêng, thậm chí linh thiêng, bất khả xâm phạm.

Trong chôn cất hoặc cải táng (là chuyện bất đắc dĩ, thường do yếu tố khách quan như bị lở sụp, giải tỏa…) người theo đạo nào thì thường chôn trong nghĩa địa đạo ấy. Thí dụ, người theo đạo Thiên chúa thì chôn nơi “đất thánh”; người theo đạo Phật thì chôn gần chùa, vì đó là nơi thanh tịnh, sạch sẽ.

Cũng cần nói thêm, ở Nam Bộ hầu như không mấy ai quan tâm đến vấn đề phong thủy, cũng không thấy ai nhờ thầy địa lý tìm long mạch đặng dời mộ. Họ cho rằng làm như thế là “động mồ động mả”, con cháu làm ăn “cất đầu không lên”.

img
Làm miếu bán.
Để tỏ sự thương cảm những “oan hồn uổng tử”, người ta lập miếu thờ gọi miễu cô hồn, nói đủ là “cô hồn các đảng” (những người chết bất luận thuộc đoàn thể, phe phái nào), nói chung là những kẻ “bạc phước vô phần, xiêu mồ lạc mả”.

Đó là nơi thờ những người chết vì chiến tranh, hoặc do bão lụt, rừng thiêng nước độc, hùm tha sấu bắt mà thân chẳng toàn thây… Họ không mồ mả, không ai giỗ chạp, phượng thờ! Cám thương hồn ma vất vưỡng đầu đường xó chợ… người ta lập ra những ngôi miếu nhỏ để thờ chung, tỏ tình đồng loại.

Ta biết, miếu cô hồn là “miễu thí” nên quy mô thường là rất khiêm tốn, lại quạnh quẻ, nhưng đặc biệt, ở núi Sam (TP.Châu Đốc, An Giang) miếu này khá to, hương khói thường nhật nên người dân gọi “nâng cấp” là “miếu” – “Miếu âm nhơn”.

Ngày trước, người đi ngang miễu/ miếu không thể không ngậm ngùi, xúc cảm, thường dừng lại thành khẩn thắp một nén hương để gọi là an ủi các âm hồn phần nào vơi bớt tủi phận. Có nơi người ta còn tổ chức lễ tế, đọc điếu văn, tuy đơn sơ nhưng nội dung thể hiện cao tấm chân tình với người đồng loại. Thí dụ như bài văn tế sau đây:

"Hỡi ôi! Quê hương đâu tá, tên họ là chi, oan khốc thay, mấy kẻ số hèn, phách quế mơ màng cơn nước lửa, ác nghiệp ở những người mạng bạc, hồn mai ngầy ngật lúc binh đao, kìa mấy kiếp ngậm van, sa xuống đất nọ ngàn đời nuốt thảm. Canh thìn trước e dè cơn gió dữ, dưới suối vàng biết mấy muôn mạng thiệt thòi. Giáp tuất trước chan chứa buổi mưa sầu, trong cung nước, biết bao hồn oan khúc.

Đã thương kẻ thịt xương chôn bụng sấu, lại đau người, hồn phách gởi răng hùm, dật dờ nội cỏ ngàn dâu, trải ngày tháng nào ai điếu tế. Ngơ ngẩn chân trời mặt bể, dầu sớm trưa ít kẻ quảy đơm. Cửa nhà nhờ hoa cỏ ngụ nương, cơm nước cậy gió mưa lần lựa.

Ôi! tay lưới luân hồi, giăng triêu cuốn tịch. Trái cân tạo hoá lọc tử lừa sanh, cầm ve thét tiếng thê bi, ca dế dạo cung ly biệt. Tai mắt cũng loài người, nên tưởng đến, dễ xuôi tín chủ động lòng thương. Chẩn tế này hương đốt thấu cùng chăng, khuyên với cô hồn soi lễ bạc. Hỡi ôi! Thương thay! Thượng hưởng!”.

XEM THÊM
>> Tết Thanh minh và tục tảo mộ của người Việt
>> Hấp dẫn món Coóng phù nóng hổi của người Tày
>> Tháng Chạp Mả, đến hẹn lại... về quê

Ảnh hưởng tập tục cúng tế của đạo Phật, xưa người ta thường cúng cô hồn bằng những thức cúng đơn mọn như gạo, muối, cháo hoặc bộ tam sên (thịt, trứng, tôm/ tép – mang tính tượng trưng), đặt ở khúc vắng, ngả ba đường, dưới bến sông... Có khi gởi theo những chiếc “tàu tống” làm bằng thân cây chuối, có cắm nhang, đem thả xuống sông, rạch mặc cho “tàu” trôi đi đâu thì trôi…

Lập miễu cô hồn, làm tàu tống… chính là một hình thức thể hiện tinh thần nhân bản buổi sơ thời của người nông dân quê mùa chân chất vậy.
Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Ý kiến của bạn
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem