Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
1. Khi thực dân Pháp trở lại muốn tái chiếm Việt Nam, trước hết họ nghĩ ngay tới những người thượng lưu trí thức do họ đào tạo, trong số đó Lưu Văn Lang khi ấy là người số một được lưu ý tới. Báo Đuốc nhà Nam số ra ngày 8.8.1969 có bài viết của chủ nhiệm Trần Tấn Quốc:
“Người Pháp cho rằng họ đã đào tạo được một nhân tài bản xứ, và họ có quyền đòi hỏi nhân tài đó một sự công tác cần thiết hơn: một công tác chính trị. Nhưng cụ Lưu Văn Lang đã khẳng khái từ chối. Cụ không phải là nhà hoạt động cách mạng. Cụ không bằng lòng người ta gọi cụ là một nhà chí sĩ. Nhưng cụ thực tâm yêu nước và rất có cảm tình với những ai dám hi sinh cho nước. Do đó mà trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp cụ tuyệt đối không hợp tác với kẻ xâm lăng, không nhận lãnh một chức vị gì trong chánh phủ bù nhìn do thực dân tạo dựng. Mỗi lần họ mời cụ là cụ từ chối với những câu trả lời trên”.
Ở Nam bộ, khi những cuộc đấu trang chống thực dân Pháp nổ ra, hàng trăm trí thức lớn ở Sài Gòn có đủ các ngành nghề: giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, chuyên gia, quản lý kinh doanh đã không hợp tác với Pháp trong việc tái xâm lăng. Họ nhiều lần ký tên vào những bản kiến nghị, yêu cầu chính phủ Pháp phải thương lượng với chính phủ Hồ Chí Minh, đặc biệt là hồi tháng 5.1947, tháng 6.1949. Mỗi lần như vậy người ta đều thấy "nhà bác vật" Lưu Văn Lang đứng đầu danh sách.
Sau thành công từ Hội nghị Genève, giới trí thức và nhân dân Sài Gòn khi ấy nhận thấy cần phải bảo vệ hòa bình, theo cách mạng, thống nhất đất nước. Vì vậy chỉ 10 ngày sau Hiệp định Genève, “Phong trào bảo vệ hòa bình Sài Gòn Chợ Lớn” được sáng lập và lãnh đạo bởi các nhà trí thức có uy tín. Lưu Văn Lang là chủ tịch danh dự. Phong trào nhanh chóng lan rộng ra lục tỉnh. Đại biểu của phong trào đi thăm tù binh, can thiệp với Ủy ban Quốc tế đòi các nhà chức trách liên hiệp Pháp phải thả những người mà họ cố giam giữ. Chính quyền Diệm đàn áp, bắt Lưu Văn Lang (và một số người khác) về “tội” lập hội không xin phép! Toà án Sài Gòn tuyên bố không xét xử được vì không có cơ sở. Diệm phải trả tự do. Ra tù, Lưu Văn Lang và Nguyễn Văn Vĩ - người đồng chí của ông, viết báo vạch trần sự gian trá của chính quyền bù nhìn. Bị chính quyền ngăn cấm không cho đăng trên báo ở Sài Gòn, các ông gửi thư tố cáo đến tổng thống, thủ tướng và chủ tịch Quốc hội Pháp!
Với sở học cùng trí thông minh thiên phú của mình, kỹ sư Lưu Văn Lang - “người con ưu tú của vùng quê Sa Đéc” đã “cứu nguy” được không ít công trình, chủ yếu là những cây cầu có vấn đề về kỹ thuật do người Pháp thời đó xây dựng. Thí dụ cây cầu ở Khánh Hội (nay thuộc quận 4 TP.HCM); cây cầu ở An Hữu nằm trên trục lộ Đông Dương (nay là quốc lộ 1, Sài Gòn – Miền Tây); cây cầu bắc ngang Tòa Bố ở Sa Đéc. Cũng tại Sa Đéc, khi đi ngang qua mũi Cần Dố (Passe Nord, chỗ bến tàu Lục tỉnh ngày xưa, – nay thuộc Phường III, thị xã Sa Đéc), Lưu Văn Lang nói với bà con địa phương: “Rồi đây khu vực này sẽ bị sụp lở sâu vô cả chục công đất”. Nghe, ai cũng ngờ ngợ, không tin. Nhưng sau đó một thời gian, chuyện gì đến đã đến!